Những điểm nổi bật
- Cả muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine đều không giảm đáng kể các đợt bùng phát phổi trong một năm ở bệnh nhân mắc bệnh phế quản phì đại.
- Không có sự khác biệt về chất lượng cuộc sống cụ thể của bệnh hoặc thời gian đến đợt bùng phát tiếp theo giữa các nhóm điều trị.
- Thử nghiệm mở rộng quy mô lớn của Anh đã loại trừ những người hút thuốc và người dùng gần đây của các liệu pháp tác động lên dịch tiết, phản ánh quần thể lâm sàng thông thường.
- Tỷ lệ các sự cố bất lợi, bao gồm cả sự cố bất lợi nghiêm trọng, là tương đương giữa các nhóm can thiệp và nhóm đối chứng, hỗ trợ tính an toàn.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Bệnh phế quản phì đại, một tình trạng hô hấp mãn tính đặc trưng bởi giãn phế quản không thể đảo ngược và sản xuất nhầy thường xuyên, gây ra gánh nặng sức khỏe đáng kể trên toàn thế giới. Bệnh nhân trải qua ho dai dẳng, sản xuất đờm, nhiễm trùng tái phát và các đợt bùng phát dẫn đến nhập viện và giảm chất lượng cuộc sống. Khác với bệnh phế quản phì đại liên quan đến xơ nang, bệnh phế quản phì đại không liên quan đến xơ nang đại diện cho một quần thể bệnh nhân đa dạng với các nguyên nhân và diễn biến lâm sàng khác nhau. Các chất tác động lên dịch tiết như muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine đã được sử dụng để giúp loại bỏ dịch tiết; tuy nhiên, các hướng dẫn lâm sàng phân岐, do bằng chứng không nhất quán. Các mô hình điều trị theo khu vực cho thấy sự biến đổi trong việc sử dụng các chất tác động lên dịch tiết, nhưng các thử nghiệm quy mô lớn, nghiêm ngặt đánh giá hiệu quả và an toàn của chúng trong bệnh phế quản phì đại không liên quan đến xơ nang vẫn còn thiếu. Nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng này đã biện minh cho việc thiết kế và thực hiện thử nghiệm CLEAR, nhằm làm rõ vai trò của các chất này trong việc giảm các đợt bùng phát phổi và cải thiện kết quả của bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm CLEAR (Hiệu quả lâm sàng của muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine trong bệnh phế quản phì đại) là một nghiên cứu ngẫu nhiên, hai nhân tố, mở rộng được tiến hành tại 20 địa điểm ở Anh. Nó tuyển chọn 288 người lớn được xác nhận mắc bệnh phế quản phì đại không liên quan đến xơ nang, những người đã trải qua các đợt bùng phát phổi thường xuyên và sản xuất đờm hàng ngày. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm việc hút thuốc hiện tại và sử dụng gần đây các liệu pháp tác động lên dịch tiết để giảm thiểu sự nhiễu loạn. Tất cả bệnh nhân tiếp tục chăm sóc tiêu chuẩn; trong khi đó, các đối tượng được ngẫu nhiên hóa thành một trong bốn nhóm: chỉ muối sinh lý nồng độ cao, chỉ carbocisteine, cả hai chất cùng nhau, hoặc chỉ chăm sóc tiêu chuẩn. Điểm cuối chính là số lượng các đợt bùng phát phổi được đánh giá cần điều trị trong 52 tuần. Các kết quả phụ bao gồm điểm số chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe cụ thể của bệnh, thời gian đến đợt bùng phát tiếp theo, và các chỉ số an toàn. Thiết kế nhân tố cho phép so sánh độc lập giữa muối sinh lý nồng độ cao với không có muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine với không có carbocisteine.
Những phát hiện chính
Trong số 288 đối tượng được ngẫu nhiên hóa, phân tích cho thấy không có sự tương tác đáng kể giữa các liệu pháp muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine, cho phép diễn giải rõ ràng hiệu ứng của từng chất. Tần suất trung bình của các đợt bùng phát là 0.76 (KTC 95%, 0.58 đến 0.95) ở bệnh nhân nhận muối sinh lý nồng độ cao, so với 0.98 (KTC 95%, 0.78 đến 1.19) ở những người không nhận nó, tương ứng với sự chênh lệch trung bình điều chỉnh là -0.25 (KTC 95%, -0.57 đến 0.07; P = 0.12). Đối với carbocisteine, tần suất trung bình của các đợt bùng phát là 0.86 (KTC 95%, 0.66 đến 1.06) so với 0.90 (KTC 95%, 0.70 đến 1.09) không có carbocisteine, cho ra sự chênh lệch điều chỉnh là -0.04 (KTC 95%, -0.36 đến 0.28; P = 0.81). Không có sự chênh lệch nào đạt ý nghĩa thống kê.
Các kết quả phụ đánh giá chất lượng cuộc sống cụ thể của bệnh, đo lường thông qua các công cụ được xác nhận, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm. Ngoài ra, thời gian trung vị đến đợt bùng phát tiếp theo không khác biệt đáng kể với bất kỳ liệu pháp nào. Các hồ sơ an toàn là tương đương; các sự cố bất lợi, bao gồm cả sự cố bất lợi nghiêm trọng, xảy ra với tần suất tương tự trong tất cả các nhóm, xác nhận khả năng dung nạp của cả muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine trong quần thể này.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm CLEAR cung cấp bằng chứng thuyết phục nhất cho đến nay về các liệu pháp tác động lên dịch tiết muối sinh lý nồng độ cao và carbocisteine trong bệnh phế quản phì đại không liên quan đến xơ nang. Mặc dù các nghiên cứu nhỏ hơn trước đây hoặc dữ liệu quan sát đề xuất có thể có lợi ích, thử nghiệm ngẫu nhiên, thiết kế nhân tố này không chứng minh được sự giảm đáng kể về tần suất bùng phát hoặc cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống. Kết quả này phù hợp với sự không nhất quán được quan sát trong các hướng dẫn toàn cầu, nhấn mạnh sự phức tạp của việc quản lý bệnh phế quản phì đại và thách thức trong việc cải thiện chức năng vận chuyển nhầy.
Những hạn chế tiềm ẩn bao gồm thiết kế mở rộng, có thể ảnh hưởng đến các kết quả được báo cáo bởi bệnh nhân, mặc dù việc đánh giá khách quan các đợt bùng phát giảm thiểu sự thiên lệch. Việc loại trừ những người hút thuốc hiện tại và người dùng gần đây của các liệu pháp tác động lên dịch tiết hạn chế một chút tính tổng quát, nhưng tăng cường tính hợp lệ nội tại. Cơ chế hoạt động của muối sinh lý nồng độ cao được cho là làm ẩm dịch tiết đường hô hấp và cải thiện chức năng vận chuyển nhầy, trong khi carbocisteine điều chỉnh thành phần và độ đàn hồi của nhầy. Sự vắng mặt của hiệu ứng lâm sàng được chứng minh cho thấy rằng các cơ chế này có thể không đủ để thay đổi đáng kể tiến trình bệnh hoặc các yếu tố kích thích bùng phát ở nhóm bệnh nhân này.
Nghiên cứu trong tương lai có thể tập trung vào việc xác định các nhóm phụ dân số có các hồ sơ bệnh lý cụ thể có thể hưởng lợi từ các liệu pháp tan nhầy hoặc kết hợp các chất tác động lên dịch tiết với các phương pháp điều trị khác. Hơn nữa, khám phá các dấu hiệu sinh học dự đoán đáp ứng có thể tinh chỉnh các chiến lược điều trị cá nhân hóa.
Kết luận
Tóm lại, thử nghiệm CLEAR xác nhận rằng việc sử dụng muối sinh lý nồng độ cao hoặc carbocisteine, đơn lẻ hoặc kết hợp, không giảm đáng kể tỷ lệ các đợt bùng phát phổi hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe trong một năm ở bệnh nhân mắc bệnh phế quản phì đại không liên quan đến xơ nang. Các liệu pháp này an toàn và dung nạp tốt nhưng không cho thấy lợi thế lâm sàng rõ ràng so với chăm sóc tiêu chuẩn. Kết quả này khuyến cáo cẩn trọng trong việc sử dụng thường xuyên các chất tác động lên dịch tiết này để phòng ngừa các đợt bùng phát trong bệnh phế quản phì đại, củng cố nhu cầu nghiên cứu thêm để xác định các can thiệp hiệu quả và tùy chỉnh chăm sóc bệnh nhân.
Tham khảo
Bradley JM, O’Neill B, McAuley DF, Chalmers JD, De Soyza A, Hill AT, Carroll M, et al; CLEAR Investigator Team. Hypertonic Saline or Carbocisteine in Bronchiectasis. N Engl J Med. 2025 Sep 28. doi: 10.1056/NEJMoa2510095. Epub ahead of print. PMID: 41020514.
Các tài liệu liên quan khác về quản lý bệnh phế quản phì đại và các chất tác động lên dịch tiết có thể tham khảo qua các hướng dẫn bệnh hô hấp hiện tại, bao gồm các hướng dẫn của Hiệp hội Hô hấp Anh và Hiệp hội Hô hấp châu Âu.