Nổi bật
- Một can thiệp kết hợp giữa tập luyện và chế độ ăn hạn chế thời gian được bắt đầu trước khi mang thai và tiếp tục trong thai kỳ không có tác động đáng kể đến khả năng dung nạp glucose ở tuần 28 của thai kỳ ở những người có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường thai kỳ (GDM).
- Sự tuân thủ theo can thiệp được chỉ định giảm trong thai kỳ, với chỉ khoảng 37%-44% đạt tiêu chuẩn tuân thủ trước và trong thai kỳ.
- Can thiệp tập luyện nhằm đạt điểm cá nhân hóa về hoạt động (PAI) hàng tuần ≥100, trong khi chế độ ăn hạn chế thời gian giới hạn thời gian nạp năng lượng hàng ngày ≤10 giờ ít nhất 5 ngày mỗi tuần.
- Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng vững chắc từ một thử nghiệm ngẫu nhiên kiểm soát tốt (RCT) rằng những thay đổi lối sống cụ thể này có thể không đủ để cải thiện kiểm soát đường huyết muộn thai kỳ ở nhóm dân số có nguy cơ cao.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Bệnh tiểu đường thai kỳ ảnh hưởng đến khoảng 7-14% các thai kỳ trên toàn thế giới và liên quan đến nguy cơ tăng của các kết quả bất lợi cho mẹ và thai nhi, bao gồm tiền sản giật, sinh mổ, macrosomia và nguy cơ dài hạn mắc bệnh tiểu đường loại 2 ở cả mẹ và con. Dù có các quy trình sàng lọc và chẩn đoán chuẩn hóa, các chiến lược hiệu quả để phòng ngừa hoặc giảm nhẹ GDM vẫn còn hạn chế. Can thiệp về lối sống tập trung vào chế độ ăn và hoạt động thể chất được khuyến nghị, nhưng bằng chứng hỗ trợ các hình thức cụ thể trước và trong thai kỳ còn ít. Chế độ ăn hạn chế thời gian (TRE), một hình thức nhịn ăn gián đoạn hạn chế lượng calo vào các khung thời gian cụ thể, đã thu hút sự quan tâm để cải thiện sức khỏe chuyển hóa. Các can thiệp về tập luyện được lượng hóa bằng các chỉ số cá nhân hóa như Điểm Hoạt động Thông minh Cá nhân (PAI) tối ưu hóa lợi ích tim mạch. Điều tra các can thiệp kết hợp này bắt đầu trước khi thụ thai có thể tạo ra cơ hội để phòng ngừa chính bệnh GDM ở những người có yếu tố nguy cơ đã được nhận diện.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm BEFORE THE BEGINNING là một thử nghiệm ngẫu nhiên kiểm soát đơn trung tâm được thực hiện tại một bệnh viện đại học ở Trondheim, Na Uy. Nghiên cứu đã tuyển chọn 167 người đang cân nhắc mang thai và có ít nhất một yếu tố nguy cơ đã được xác định cho GDM. Người tham gia được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 để nhận can thiệp về lối sống hoặc chăm sóc tiêu chuẩn.
Nhóm can thiệp tham gia:
- Tập luyện nhằm đạt điểm PAI hàng tuần ≥100. PAI chuyển đổi dữ liệu nhịp tim thành điểm hoạt động cá nhân hóa phản ánh lợi ích tim mạch.
- Chế độ ăn hạn chế thời gian với tất cả lượng calo được nạp trong một khung thời gian ≤10 giờ ít nhất 5 ngày mỗi tuần.
Các can thiệp này được bắt đầu trước khi mang thai và duy trì qua thai kỳ.
Kết quả chính là mức glucose huyết tương sau 2 giờ trong một bài kiểm tra dung nạp glucose tiêu chuẩn (OGTT) ở tuần 28 của thai kỳ. Tất cả các phân tích đều dựa trên nguyên tắc điều trị theo ý định.
Kết quả chính
Trong số 167 người tham gia được ngẫu nhiên hóa (84 can thiệp; 83 đối chứng), 111 người mang thai trong giai đoạn theo dõi (56 can thiệp; 55 đối chứng). Sau khi loại trừ (tiểu đường trước khi mang thai ở một người tham gia can thiệp và mang thai đôi ở một người tham gia đối chứng), dữ liệu về đường huyết của 109 người tham gia được phân tích.
- Kết quả chính, mức glucose huyết tương sau 2 giờ ở tuần 28, không có sự cải thiện thống kê đáng kể trong nhóm can thiệp so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt trung bình là 0.48 mmol/L (95% CI, -0.05 đến 1.01; P=0.08), thuận lợi cho nhóm đối chứng nhưng không đáng kể.
- Sự tuân thủ can thiệp là vừa phải trước khi mang thai, với 31/83 (37%) người tham gia đáp ứng tiêu chuẩn tuân thủ đã định. Trong số những người mang thai, 24/55 (44%) tuân thủ trước khi mang thai.
- Trung bình, thời gian ăn hàng ngày trong giai đoạn trước khi mang thai gần đạt mục tiêu (trung bình 9.9 giờ/ngày; SD 1.2), và điểm PAI hàng tuần đạt 111 điểm (SD 54), hơi vượt quá mục tiêu.
- Sự tuân thủ cả chế độ ăn hạn chế thời gian và tập luyện giảm trong thai kỳ, phản ánh những thách thức trong việc duy trì thay đổi lối sống trong thai kỳ.
- Không có sự kiện bất lợi đáng kể liên quan đến can thiệp được báo cáo.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm nghiêm ngặt này cung cấp những hiểu biết quý giá về những thách thức và hạn chế tiềm ẩn của can thiệp về lối sống nhắm mục tiêu phòng ngừa GDM trong một nhóm dân số có nguy cơ cao. Kết quả này phù hợp với các thử nghiệm trước đây chứng minh hiệu quả hỗn hợp hoặc hạn chế của các can thiệp tương tự đối với các kết quả đường huyết của mẹ.
Một số yếu tố có thể giải thích cho kết quả không có ý nghĩa. Sự tuân thủ giảm trong thai kỳ làm giảm lợi ích chuyển hóa mong đợi. Ngoài ra, sự đa dạng trong hồ sơ nguy cơ cơ bản và kiểu chuyển hóa của người tham gia có thể làm giảm hiệu quả của can thiệp. Mẫu size và năng lực tương đối nhỏ có thể đã hạn chế khả năng phát hiện các hiệu ứng nhỏ nhưng có ý nghĩa lâm sàng.
Hơn nữa, việc sử dụng can thiệp về lối sống kết hợp làm phức tạp việc tách biệt tác động độc lập của chế độ ăn hạn chế thời gian so với tập luyện. Các nghiên cứu trong tương lai có thể đánh giá các phương pháp này riêng lẻ và khám phá các điểm cuối chuyển hóa dài hạn hơn.
Quan trọng là, mặc dù hứa hẹn trong các dân số không mang thai, chế độ ăn hạn chế thời gian thiếu dữ liệu an toàn rộng rãi trong thai kỳ; thử nghiệm này hỗ trợ độ an toàn tương đối nhưng nhấn mạnh các thách thức về khả thi.
Hướng dẫn lâm sàng hiện tại khuyến nghị tư vấn lối sống cá nhân hóa nhấn mạnh chế độ ăn cân đối và hoạt động thể chất trong thai kỳ. Nghiên cứu này cho thấy rằng chế độ ăn hạn chế thời gian kết hợp với tập luyện dựa trên PAI, như đã áp dụng ở đây, có thể không cải thiện khả năng dung nạp glucose nhưng không loại trừ lợi ích từ các phương pháp thay thế hoặc cường độ cao hơn.
Kết luận
Thử nghiệm BEFORE THE BEGINNING cho thấy việc bắt đầu một can thiệp kết hợp về lối sống của chế độ ăn hạn chế thời gian và tập luyện trước khi mang thai và qua thai kỳ không cải thiện đáng kể khả năng dung nạp glucose ở tuần 28 của thai kỳ ở những người có nguy cơ tăng mắc bệnh tiểu đường thai kỳ. Sự tuân thủ vừa phải và sự tham gia giảm trong thai kỳ có thể góp phần vào các kết quả này. Mặc dù an toàn, các can thiệp cụ thể này có thể cần được bổ sung hoặc sửa đổi để đạt được lợi ích chuyển hóa có ý nghĩa trong nhóm dân số này. Các thử nghiệm quy mô lớn, có năng lực tốt hơn là cần thiết để tinh chỉnh các chiến lược phòng ngừa và tối ưu hóa các kết quả cho mẹ và thai nhi trong thai kỳ có nguy cơ cao.
Tham khảo
1. Sujan MJ, Skarstad HM, Rosvold G, et al. Time restricted eating and exercise training before and during pregnancy for people with increased risk of gestational diabetes: single centre randomised controlled trial (BEFORE THE BEGINNING). BMJ. 2025 Sep 9;390:e083398. doi:10.1136/bmj-2024-083398.
2. American Diabetes Association. 2. Classification and Diagnosis of Diabetes: Standards of Medical Care in Diabetes—2024. Diabetes Care. 2024;47(Suppl 1):S17-S29.
3. Gipson DS, Shapiro AL, Newton KI, et al. Lifestyle intervention for prevention of gestational diabetes in high-risk populations: a systematic review and meta-analysis. Diabetes Res Clin Pract. 2023;193:110024.
4. Wilmot EG, Edwardson CL, Davies MJ, Yates T. Behavioral approaches to type 2 diabetes prevention: efficacy and application. Diabetologia. 2022;65(2):188-199.
5. Manoogian ENC, Panda S. Circadian rhythms, time-restricted feeding, and healthy aging. Ageing Res Rev. 2017;39:59-67.