Giới thiệu
Hidradenitis suppurativa (HS) là một tình trạng viêm da mãn tính đặc trưng bởi các u đau đớn, mủ và các đường rò, thường gặp ở các vùng có tuyến mồ hôi apocrine như nách và háng. Ngoài các biểu hiện về mặt thể chất, HS ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và đã được liên kết với sự gia tăng căng thẳng tâm lý. Trầm cảm và lo âu là những tình trạng sức khỏe tâm thần phổ biến có thể làm tăng gánh nặng của các bệnh mãn tính. Mặc dù bệnh nhân HS đã được công nhận có nguy cơ cao hơn mắc trầm cảm và lo âu, vẫn chưa rõ liệu mức độ nghiêm trọng của HS có ảnh hưởng độc lập đến nguy cơ mắc các tình trạng tâm thần này hay không.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên quần thể này nhằm đánh giá nguy cơ mắc mới và tái phát trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân HS so với quần thể nền tảng. Ngoài ra, nghiên cứu cũng khám phá xem mức độ nghiêm trọng của bệnh HS, suy luận từ loại điều trị và các can thiệp phẫu thuật liên quan đến HS, có liên quan đến sự khác biệt về nguy cơ sức khỏe tâm thần hay không.
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phân tích dữ liệu từ đăng ký quốc gia Đan Mạch từ năm 1997 đến 2022, bao gồm 10.206 bệnh nhân được chẩn đoán HS qua hồ sơ chẩn đoán bệnh viện. Mỗi bệnh nhân HS được ghép đôi theo tuổi và giới với bốn đối chứng không bị HS, tổng cộng 40.125 đối chứng. Độ tuổi trung bình là 38 tuổi, và khoảng 70% nhóm nghiên cứu là nữ, phản ánh tỷ lệ mắc HS cao hơn ở phụ nữ. Phân tích dữ liệu được thực hiện từ tháng 7 năm 2024 đến tháng 5 năm 2025.
Phơi nhiễm và Kết quả
Phơi nhiễm được định nghĩa là chẩn đoán HS được xác nhận tại bệnh viện. Kết quả chính là chẩn đoán đầu tiên của trầm cảm hoặc lo âu xảy ra sau ngày chỉ số (ngày chẩn đoán HS cho các trường hợp và một ngày phù hợp cho các đối chứng). Nghiên cứu đánh giá riêng biệt việc mắc mới trầm cảm và lo âu, cũng như tái phát các tình trạng này cho những người có tiền sử mắc bệnh.
Định nghĩa Mức độ Bệnh
Mức độ HS được phân loại dựa trên các loại điều trị nhận được và số lần nhập viện vì các thủ thuật phẫu thuật liên quan đến HS. Các nhóm điều trị bao gồm chỉ dùng thuốc bôi, điều trị hệ thống không phải sinh học, điều trị sinh học, hoặc không có điều trị liên quan đến HS. Các lần nhập viện phẫu thuật được nhóm thành không có, một, hai, hoặc ba lần trở lên. Các nhóm này đóng vai trò như các đại diện cho mức độ bệnh, nhận biết rằng điều trị tích cực hơn hoặc phẫu thuật lặp đi lặp lại chỉ ra mức độ bệnh nghiêm trọng hơn hoặc khó điều trị hơn.
Phân tích Dữ liệu
Tỷ lệ mắc mới (IRs) và tỷ lệ nguy cơ (HRs) được tính toán bằng cách sử dụng mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox, điều chỉnh cho các biến nhân khẩu học, địa vị kinh tế-xã hội và các bệnh đồng mắc như các bệnh mãn tính khác. Các điều chỉnh này đảm bảo rằng mối liên hệ giữa HS và kết quả tâm thần không bị nhiễu bởi các yếu tố này.
Kết quả Chính
Bệnh nhân HS có nguy cơ mắc mới trầm cảm (HR 1.69; 95% CI 1.57-1.81; p < .001) và lo âu (HR 1.48; 95% CI 1.38-1.56; p < .001) cao hơn đáng kể so với các đối chứng phù hợp. Khi phân loại theo phương pháp điều trị như một đại diện cho mức độ bệnh:
- Nhóm chỉ dùng thuốc bôi có HR 1.62 (95% CI 1.41-1.85) cho cả trầm cảm hoặc lo âu.
- Nhóm điều trị hệ thống không phải sinh học có HR 1.61 (95% CI 1.51-1.72).
- Bệnh nhân điều trị sinh học có HR thấp hơn một chút 1.38 (95% CI 1.01-1.87), mặc dù vẫn cao.
Xem xét số lần nhập viện phẫu thuật như một dấu hiệu của mức độ bệnh:
- Không có lần nhập viện: HR 1.44 (95% CI 1.36-1.53).
- Một lần nhập viện: HR 1.66 (95% CI 1.53-2.17).
- Hai lần nhập viện: HR 1.59 (95% CI 1.33-1.90).
- Ba lần hoặc nhiều hơn: HR 1.60 (95% CI 1.40-1.85).
Tỷ lệ tiền sử mắc trầm cảm (7.0% so với 0.3%) và lo âu (5.9% so với 0.5%) ở bệnh nhân HS cao hơn đáng kể so với các đối chứng (p < .001 cho cả hai). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về nguy cơ tái phát trầm cảm (HR 0.90; 95% CI 0.62-1.28; p = .55) hoặc lo âu (HR 1.22; 95% CI 0.89-1.66; p = .22) ở những người có tiền sử mắc các rối loạn này.
Giải thích Lâm sàng
Nghiên cứu xác nhận rằng cá nhân bị HS có nguy cơ mắc trầm cảm và lo âu lần đầu sau khi chẩn đoán cao đáng kể. Điều đáng ngạc nhiên là nguy cơ này không thay đổi đáng kể qua các dấu hiệu mức độ nghiêm trọng của HS, như độ phức tạp của điều trị hoặc can thiệp phẫu thuật, cho thấy nguy cơ sức khỏe tâm thần tăng cao bất kể mức độ nghiêm trọng của bệnh da lâm sàng.
Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của sàng lọc sức khỏe tâm thần toàn diện và đánh giá tâm thần cho tất cả bệnh nhân HS, bất kể mức độ nghiêm trọng của bệnh. Việc phát hiện sớm và can thiệp có thể cải thiện chất lượng cuộc sống và kết quả quản lý tổng thể.
Tổng quan về Điều trị và Tác động Tâm lý
Điều trị HS bao gồm từ kháng sinh và chất sát khuẩn bôi ngoài da cho bệnh nhẹ đến các liệu pháp hệ thống bao gồm kháng sinh, retinoids, modulator hormone và thuốc ức chế miễn dịch cho các trường hợp trung bình đến nặng, với các sinh học nhắm vào các con đường viêm cho bệnh khó điều trị. Các can thiệp phẫu thuật thường xử lý các tổn thương nghiêm trọng hoặc không đáp ứng.
Sống với HS có thể gây đau đớn về mặt thể chất, cô lập xã hội và kiệt sức tâm lý do các tổn thương có thể nhìn thấy, mùi hôi và tính mãn tính, các yếu tố này góp phần làm tăng nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần. Chăm sóc hướng đến bệnh nhân kết hợp hỗ trợ da liễu và tâm lý là thiết yếu.
Hạn chế và Hướng Nghiên cứu Tương lai
Mặc dù nghiên cứu tận dụng một cơ sở dữ liệu đăng ký quốc gia lớn và toàn diện, vẫn tồn tại một số hạn chế. Các biện pháp đại diện cho mức độ bệnh dựa trên điều trị và nhập viện có thể không nắm bắt được tất cả các khía cạnh của hoạt động bệnh. Ngoài ra, các chẩn đoán tâm thần phụ thuộc vào mã hóa lâm sàng ghi trong dữ liệu bệnh viện, có thể bỏ sót các trường hợp nhẹ hoặc chưa được chẩn đoán.
Nghiên cứu tương lai nên khám phá các cơ chế liên kết HS và các rối loạn tâm trạng, bao gồm các con đường viêm và các yếu tố căng thẳng tâm lý-xã hội, và đánh giá các mô hình chăm sóc tích hợp. Ngoài ra, các nghiên cứu đánh giá tác động của điều trị HS đối với kết quả sức khỏe tâm thần sẽ rất quý giá.
Kết luận
Bệnh nhân bị hidradenitis suppurativa có nguy cơ mắc mới trầm cảm và lo âu cao đáng kể, độc lập với mức độ nghiêm trọng của bệnh như được đo bằng điều trị và can thiệp phẫu thuật. Các kết quả này nhấn mạnh sự cần thiết phải sàng lọc và can thiệp sức khỏe tâm thần cho tất cả cá nhân bị HS để giải quyết gánh nặng đáng kể của các rối loạn tâm thần đồng mắc trong rối loạn da mãn tính này.
Tài liệu tham khảo
Holgersen N, Rosenø NAL, Nielsen VW, et al. Risk of New-Onset and Recurrent Depression and Anxiety Among Patients With Hidradenitis Suppurativa. JAMA Dermatol. Published online July 30, 2025. doi:10.1001/jamadermatol.2025.2298