Hydrocortisone trong trẻ sơ sinh non tháng và kết quả chức năng ở độ tuổi đi học: Đánh giá toàn diện bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên

Hydrocortisone trong trẻ sơ sinh non tháng và kết quả chức năng ở độ tuổi đi học: Đánh giá toàn diện bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên

Nhấn mạnh

  • Hydrocortisone sơ sinh được sử dụng từ ngày 14 đến 28 sau sinh cho trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ cao mắc bệnh phổi mạn tính (BPD) không giảm suy giảm chức năng ở độ tuổi đi học sớm.
  • Suy giảm chức năng, chủ yếu là chậm vận động và giảm khả năng tập luyện, vẫn phổ biến ở khoảng ba phần tư trẻ em sinh non cực kỳ, bất kể điều trị bằng hydrocortisone.
  • An toàn về phát triển thần kinh lâu dài của hydrocortisone được hỗ trợ, không có tăng đáng kể về kết quả nhận thức hoặc học thuật tiêu cực.
  • Xác định rủi ro và thời điểm điều trị là quan trọng; tác động của hydrocortisone không bị thay đổi bởi rủi ro BPD cơ bản qua các nhóm tuổi thai.

Nền tảng

Bệnh phổi mạn tính (BPD) là bệnh mãn tính phổ biến nhất liên quan đến sinh non, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh sinh trước 30 tuần tuổi thai. Nó xuất hiện từ sự tương tác phức tạp giữa sự non nớt, thông khí máy, độc tính oxy và viêm. BPD không chỉ làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và sử dụng nguồn lực trong bệnh viện mà còn góp phần vào rối loạn chức năng hô hấp kéo dài và suy giảm phát triển thần kinh (NDI). Corticosteroid hậu sản đã được sử dụng để phòng ngừa hoặc điều trị BPD, với dexamethasone cho thấy hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc BPD nhưng gây ra những lo ngại đáng kể về tác động tiêu cực về phát triển thần kinh lâu dài. Hydrocortisone đã được đề xuất là một lựa chọn an toàn hơn do hoạt động khác nhau của nó đối với thụ thể glucocorticoid và mineralocorticoid và hồ sơ an toàn tốt hơn trong giai đoạn đầu đời. Tuy nhiên, bằng chứng về tác động của nó đối với cả kết quả hô hấp và kết quả chức năng lâu dài vẫn còn hạn chế và không đồng nhất.

Nội dung chính

Sự phát triển theo thời gian của bằng chứng về hydrocortisone trong trẻ sơ sinh non tháng

Các nghiên cứu lâm sàng giai đoạn đầu và các nghiên cứu quan sát đã điều tra vai trò của hydrocortisone trong việc phòng ngừa BPD và hồ sơ an toàn của nó. Thử nghiệm PREMILOC (2008–2014) đã đánh giá hydrocortisone liều thấp sớm và báo cáo cải thiện tỷ lệ sống sót không mắc BPD và không có tăng đáng kể về suy giảm phát triển thần kinh ở 2 tuổi (PMID: 28384828). Theo dõi ở 5 tuổi cho thấy có một số cải thiện trong các lĩnh vực nhận thức như bộ nhớ làm việc mà không ảnh hưởng đáng kể đến chỉ số IQ toàn diện (PMID: 36417367).

Hệ thống Nghiên cứu Nhi khoa Quốc gia về Sức khỏe và Phát triển Trẻ em (NICHD) đã tiến hành Thử nghiệm Hydrocortisone cho BPD (NCT01353313), tuyển dụng 800 trẻ sơ sinh non tháng (<30 tuần tuổi thai) được thông khí máy từ ngày 14 đến 28 sau sinh. Người tham gia nhận liệu pháp giảm dần 10 ngày của hydrocortisone (4 mg/kg/ngày ban đầu) hoặc giả dược. Kết quả hiệu quả sơ sinh chính là tỷ lệ sống sót không mắc BPD trung bình hoặc nặng ở 36 tuần tuổi thai, và kết quả an toàn chính là tỷ lệ sống sót không mắc suy giảm phát triển thần kinh trung bình hoặc nặng ở 22–26 tháng tuổi điều chỉnh (PMID: 35320643).

Kết quả từ thử nghiệm này và các phân tích phụ tiếp theo cho thấy điều trị bằng hydrocortisone không giảm đáng kể tỷ lệ mắc BPD hoặc tử vong so với giả dược. Hơn nữa, không có sự khác biệt thống kê đáng kể về suy giảm phát triển thần kinh hoặc tử vong trong kết quả an toàn chính. Quan trọng là, huyết áp cao xảy ra thường xuyên hơn ở nhóm hydrocortisone, nhấn mạnh nhu cầu theo dõi cẩn thận (PMID: 35320643).

Trong một theo dõi triển vọng mở rộng gần đây của nhóm này đến độ tuổi đi học sớm (tuổi điều chỉnh 5 đến 70%), làm nổi bật những thách thức phát triển kéo dài trong dân số dễ tổn thương này (PMID: 41359352).

Bằng chứng theo kết quả và tham số điều trị

Nghiên cứu/Thử nghiệm Đối tượng Can thiệp Kết quả chính Kết quả chính Thời gian theo dõi
PREMILOC (PMID: 28384828, 36417367) Trẻ sơ sinh non cực kỳ
(<28 tuần tuổi)
Hydrocortisone liều thấp sớm
(0.5 mg/kg mỗi ngày 2 lần x7 ngày, sau đó mỗi ngày 1 lần x3 ngày)
Tỷ lệ sống sót không mắc BPD
Suy giảm phát triển thần kinh ở 2 tuổi và 5 tuổi
Cải thiện tỷ lệ sống sót không mắc BPD
Không có sự khác biệt đáng kể về NDI tổng thể ở 2 tuổi
Tại 5 tuổi, cải thiện khả năng giữ bộ nhớ làm việc với HC
5 năm
NICHD NRN Thử nghiệm Hydrocortisone (PMID: 35320643, 41359352) Trẻ sơ sinh non rất nặng
(<30 tuần tuổi), thông khí máy ≥7 ngày từ ngày 14-28
Khóa học giảm dần 10 ngày hydrocortisone
(bắt đầu từ ngày 14–28)
Tỷ lệ sống sót không mắc BPD trung bình/nặng
Tỷ lệ sống sót không mắc NDI
Suy giảm chức năng ở độ tuổi đi học (vận động, nhận thức, học thuật, tập luyện)
Không có cải thiện đáng kể về tỷ lệ sống sót không mắc BPD
Không có sự khác biệt đáng kể về NDI hoặc suy giảm chức năng ở độ tuổi đi học
Huyết áp cao hơn ở nhóm HC
Đến độ tuổi đi học (5-7 tuổi)

Hồ sơ an toàn

Hydrocortisone nói chung đã thể hiện hồ sơ an toàn về phát triển thần kinh tốt hơn so với dexamethasone nhưng đi kèm với tỷ lệ tăng huyết áp cần điều trị trong bệnh viện cao hơn. Theo dõi dài hạn chưa cho thấy tăng suy giảm nhận thức hoặc vận động do tiếp xúc với hydrocortisone. Tuy nhiên, tỷ lệ cao của suy giảm chức năng kéo dài cho thấy các yếu tố đa dạng vượt quá việc sử dụng corticosteroid.

Nhận xét từ các phân tích phụ và phân nhóm

Phân tích phụ của các nhà nghiên cứu thử nghiệm NICHD NRN (PMID: 40090543, 37722765) không tìm thấy rằng hydrocortisone thay đổi mối quan hệ giữa động mạch dẫn thông và kết quả hô hấp hoặc phát triển thần kinh. Phân tích phân nhóm chỉ ra khả năng khác biệt điều trị theo tuổi thai, với cải thiện tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh <27 tuần, mặc dù tác động về phát triển thần kinh vẫn chưa rõ ràng.

Các can thiệp corticosteroid khác và bằng chứng so sánh

Trái ngược lại, việc sử dụng corticosteroid hậu sản dexamethasone để phòng ngừa hoặc điều trị BPD đã được xác nhận giảm BPD nhưng tăng nguy cơ kết quả phát triển thần kinh tiêu cực, chuyển hướng ưu tiên lâm sàng sang hydrocortisone hoặc hạn chế sử dụng steroid. Steroid hít như budesonide không cho thấy lợi ích phát triển thần kinh đáng kể với lo ngại về tăng tỷ lệ tử vong (PMID: 29320647). Hydrocortisone liều thấp, được sử dụng đúng thời điểm, vẫn là một ứng cử viên có cân nhắc tốt giữa hiệu quả và an toàn.

Bình luận chuyên gia

Liệu pháp corticosteroid để phòng ngừa BPD ở trẻ sơ sinh non tháng tiếp tục đặt ra thách thức lâm sàng cân nhắc hiệu quả chống lại an toàn phát triển thần kinh. Thử nghiệm Hydrocortisone của NICHD NRN và kết quả theo dõi mở rộng đóng góp đáng kể vào hiểu biết của chúng ta bằng cách chứng minh rằng hydrocortisone muộn, mặc dù an toàn về mặt phát triển thần kinh, không giảm gánh nặng cao của suy giảm chức năng phổ biến ở những người sống sót.

Mặc dù hydrocortisone có tiềm năng giảm viêm phổi, nhưng thiếu cải thiện đáng kể về tỷ lệ sống sót không mắc BPD hoặc kết quả chức năng cho thấy các yếu tố đa dạng gây ra suy giảm phát triển thần kinh vẫn tồn tại ngoài các rối loạn hô hấp sơ sinh. Thời gian, liều lượng và lựa chọn bệnh nhân cho can thiệp corticosteroid cần được tinh chỉnh hơn, tích hợp các dấu hiệu sinh học và mô hình phân loại rủi ro.

Các hướng dẫn và hội đồng chuyên gia hiện tại thận trọng ủng hộ việc sử dụng hydrocortisone ở trẻ sơ sinh non tháng phụ thuộc vào máy thở sau tuần đầu tiên của cuộc đời để giúp rút ống nội khí quản nhưng nhấn mạnh sự cần thiết phải tối thiểu hóa liều lượng và thời gian để giảm nguy cơ gây hại. Bài đánh giá này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi dài hạn liên tục trong các thử nghiệm ngẫu nhiên đánh giá các liệu pháp sơ sinh, với các đánh giá chức năng đa chiều mạnh mẽ kéo dài đến độ tuổi đi học.

Kết luận

Hydrocortisone được sử dụng từ ngày 14 đến 28 sau sinh ở trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ cao mắc BPD không cải thiện đáng kể kết quả chức năng vận động, nhận thức, học thuật hoặc phổi ở độ tuổi đi học sớm, mặc dù an toàn về mặt phát triển thần kinh. Tỷ lệ cao của suy giảm chức năng kéo dài ở độ tuổi đi học làm nổi bật sự dễ tổn thương kéo dài của dân số này vượt quá các can thiệp chăm sóc đặc biệt sơ sinh. Nghiên cứu trong tương lai phải tập trung vào các phương pháp điều trị tích hợp giải quyết viêm, tổn thương và hỗ trợ phát triển thần kinh, cùng với các chiến lược y học cá nhân hóa dựa trên rủi ro và kiểu dáng sinh học. Theo dõi kéo dài và các biện pháp kết quả toàn diện vẫn là cần thiết để cung cấp thông tin cho quyết định lâm sàng và chính sách y tế.

Tài liệu tham khảo

  • DeMauro SB, Kirpalani H, Hintz S, et al. Hydrocortisone in Preterm Infants and School-Age Functional Outcomes: Follow-Up of a Randomized Clinical Trial. JAMA Pediatr. 2025 Dec 8. doi:10.1001/jamapediatrics.2025.4801. PMID: 41359352.
  • Watterberg KL, Kallapur S, et al. Hydrocortisone to Improve Survival without Bronchopulmonary Dysplasia. N Engl J Med. 2022;386(12):1121-1131. doi:10.1056/NEJMoa2114897. PMID: 35320643.
  • Baud O, Laguerre B, et al. Association Between Early Low-Dose Hydrocortisone Therapy in Extremely Preterm Neonates and Neurodevelopmental Outcomes at 2 Years of Age. JAMA. 2017;317(13):1329-1337. doi:10.1001/jama.2017.2692. PMID: 28384828.
  • Loureiro B, Fournet JC, et al. Neurocognitive outcomes at age 5 years after prophylactic hydrocortisone in infants born extremely preterm. Dev Med Child Neurol. 2023;65(7):926-932. doi:10.1111/dmcn.15470. PMID: 36417367.
  • Jobe AH. Postnatal corticosteroids for chronic lung disease: evidence and hopes. Semin Perinatol. 2014;38(2):98-105. doi:10.1053/j.semperi.2013.11.003. PMID: 24560267.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận