Những Điểm Chính
– Trong hai nhóm độc lập (UCSF Memory and Aging Center và NACC), trầm cảm, lo âu và PTSD có liên quan đến sự xuất hiện sớm các triệu chứng bệnh Alzheimer (AD).
– Trong nhóm UCSF MAC, trầm cảm và lo âu phổ biến hơn ở AD khởi phát sớm, và PTSD có liên quan đến sự thay đổi lớn nhất về tuổi xuất hiện triệu chứng (trung bình khoảng 6.8 năm sớm hơn).
– Gánh nặng của các bệnh tâm thần có mối quan hệ liều lượng phụ thuộc vào tuổi xuất hiện triệu chứng AD: 1 bệnh ≈ 1.5 năm sớm hơn, 2 bệnh ≈ 3-3.3 năm sớm hơn, ≥3 bệnh lên đến ≈ 7.7 năm sớm hơn.
Nền Tảng
Bệnh Alzheimer (AD) là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh mất trí nhớ trên toàn thế giới và là một yếu tố đóng góp quan trọng vào tình trạng khuyết tật, bệnh tật và chi phí y tế. Mặc dù tuổi vẫn là yếu tố nguy cơ chính cho AD không do di truyền, các bệnh tâm thần trước đó đã được xác định trong các nghiên cứu dịch tễ học và lâm sàng là những yếu tố có thể điều chỉnh nguy cơ mắc bệnh, thời gian và biểu hiện của mất trí nhớ. Trầm cảm và lo âu đã được quan sát từ lâu có liên quan đến suy giảm nhận thức sau này và mất trí nhớ; liệu chúng có phải là biểu hiện sớm của sự thoái hóa thần kinh, yếu tố nguy cơ độc lập, hay cả hai vẫn là một câu hỏi quan trọng có ý nghĩa đối với phòng ngừa và chăm sóc lâm sàng.
Thiết Kế Nghiên Cứu
Các nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu lâm sàng hồi cứu từ hai nhóm lớn AD để xác định tần suất mắc các bệnh tâm thần đồng thời và kiểm tra mối liên quan với tuổi xuất hiện triệu chứng.
Dân Số và Nguồn Dữ Liệu
– Trung tâm Nhớ và Lão Hóa Đại học California, San Francisco (UCSF MAC): n = 1,500 bệnh nhân có chẩn đoán lâm sàng AD, khoảng một nửa đáp ứng tiêu chuẩn cho AD khởi phát sớm (thường được định nghĩa là xuất hiện triệu chứng <65 tuổi).
– Trung tâm Điều phối Quốc gia về Alzheimer (NACC): >8,000 người tham gia có chẩn đoán AD từ nhiều Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Alzheimer trên khắp Hoa Kỳ; được sử dụng làm bộ so sánh ngoại vi để kiểm chứng và tính đại diện.
Xác Định Trường Hợp và Đo Lường Tiếp Xúc Tâm Thần
Các bệnh tâm thần (bao gồm trầm cảm, lo âu, rối loạn căng thẳng sau chấn thương [PTSD], rối loạn lưỡng cực và rối loạn tâm thần phân liệt) được xác định hồi cứu từ hồ sơ bệnh nhân và ghi chú thăm khám ban đầu. Nhóm UCSF đánh giá lịch sử suốt đời, trong khi các phân tích NACC tập trung vào sự hiện diện của các triệu chứng trầm cảm hoặc lo âu hiện tại tại thời điểm đánh giá.
Kết Quả và Phân Tích
Kết quả chính: tuổi xuất hiện triệu chứng AD (do bệnh nhân hoặc người thông tin báo cáo). So sánh thống kê đánh giá sự khác biệt về tuổi xuất hiện theo chẩn đoán tâm thần và theo số lượng các bệnh tâm thần. Các phân tích báo cáo sự khác biệt tuyệt đối theo năm và ý nghĩa thống kê (P values); báo cáo chính đã so sánh tỷ lệ mắc giữa AD khởi phát sớm và muộn trong nhóm UCSF.
Những Phát Hiện Chính
Nghiên cứu của Eijansantos et al. (2025) báo cáo một số phát hiện lâm sàng có liên quan từ nhóm UCSF MAC với sự kiểm chứng trong dữ liệu NACC.
Tần Suất Mắc Các Bệnh Tâm Thần (UCSF MAC)
– Lịch sử mắc trầm cảm: 43% bệnh nhân.
– Lịch sử mắc lo âu: 32% bệnh nhân.
– Rối loạn lưỡng cực: 1%.
– PTSD: 1%.
– Rối loạn tâm thần phân liệt: 0.4%.
Tỷ Lệ Cao Hơn ở AD Khởi Phát Sớm
Người tham gia có AD khởi phát sớm có tỷ lệ mắc trầm cảm (P <.001) và lo âu (P <.001) cao hơn đáng kể so với những người có AD khởi phát muộn trong nhóm UCSF.
Mối Liên Quan với Tuổi Xuất Hiện Triệu Chứng AD
So với những người không mắc các bệnh tâm thần được chỉ định, những người tham gia UCSF MAC mắc:
- Trầm cảm trung bình trẻ hơn 2.2 năm khi xuất hiện triệu chứng AD (P <.001).
- Lo âu trung bình trẻ hơn 3.0 năm khi xuất hiện triệu chứng AD (P <.001).
- PTSD trung bình trẻ hơn 6.8 năm khi xuất hiện triệu chứng AD (P <.05).
Trong nhóm NACC, những người có các triệu chứng trầm cảm hoặc lo âu hiện tại trung bình trẻ hơn 2.1 năm khi xuất hiện triệu chứng AD so với những người không có triệu chứng (P <.001), cung cấp tính nhất quán ngoại vi cho các quan sát của UCSF.
Gánh Nặng Tâm Thần và Mối Quan Hệ Liều Lượng
Trong nhóm UCSF MAC, số lượng chẩn đoán tâm thần tăng lên có liên quan đến sự xuất hiện sớm dần của các triệu chứng AD:
- Một bệnh tâm thần: giảm ≈ 1.5 năm tuổi xuất hiện (P <.001).
- Hai bệnh: giảm ≈ 3.3 năm tuổi xuất hiện (P <.001).
- Ba hoặc nhiều hơn: giảm ≈ 7.7 năm tuổi xuất hiện (P <.001).
Dữ liệu NACC cho thấy một mô hình tương tự cho một (1.5 năm sớm hơn, P <.001) và hai bệnh (3.2 năm sớm hơn, P <.001) mặc dù các phân tích NACC sử dụng triệu chứng hiện tại thay vì lịch sử suốt đời.
Những Quan Sát Thứ cấp
– Rối loạn lưỡng cực và rối loạn tâm thần phân liệt ít gặp trong các nhóm này, hạn chế khả năng thống kê để đánh giá mạnh mẽ mối liên quan của chúng.
– Đánh giá hiệu ứng đơn bệnh lớn nhất được nhìn thấy ở PTSD, mặc dù tỷ lệ mắc thấp và các khoảng tin cậy không được cung cấp trong bản tóm tắt; cần kiểm chứng trong các mẫu có tỷ lệ mắc PTSD cao hơn.
Bình Luận Chuyên Gia: Giải Thích, Điểm Mạnh và Hạn Chế
Giải Thích và Khả Năng Sinh Học
Các mối liên quan được quan sát phù hợp với một cơ sở tài liệu cho thấy rằng các rối loạn tâm trạng và lo âu có liên quan đến nguy cơ tăng cao của suy giảm nhận thức và mất trí nhớ. Cơ chế tiềm năng bao gồm viêm thần kinh mạn tính, rối loạn trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA), tổn thương hạch hải mã do glucocorticoid, bệnh mạch máu não do các bệnh lý hành vi và chuyển hóa, và các yếu tố lối sống (không vận động, cô lập xã hội, giấc ngủ kém) mà cả hai đều làm tăng cường các rối loạn tâm thần và đẩy nhanh sự thoái hóa thần kinh. Một giải thích thay thế (và không loại trừ) là các triệu chứng tâm thần ở giữa cuộc đời hoặc sau này có thể là biểu hiện sớm của bệnh AD đang khởi phát.
Điểm Mạnh
- Nhóm lâm sàng lớn (UCSF MAC) với phân loại chi tiết và một bộ dữ liệu kiểm chứng (NACC) hỗ trợ tính đại diện qua các trung tâm nghiên cứu.
- Số lượng các bệnh tâm thần (số lượng điều kiện) cho phép thể hiện mối quan hệ liều lượng với tuổi xuất hiện.
- Kết quả có thể áp dụng lâm sàng (tuổi xuất hiện triệu chứng) thay vì chỉ sự mắc phải dài hạn làm cho các kết quả trực tiếp liên quan đến các bác sĩ quản lý bệnh nhân có tiền sử tâm thần.
Những Hạn Chế Chính và Sơ Hở Có Thể Có
- Xác định hồi cứu các chẩn đoán tâm thần từ ghi chú lâm sàng dễ bị sai phân loại, không đầy đủ trong việc ghi lại mức độ/sever độ, và sự khác biệt trong việc ghi chép giữa các bác sĩ và trung tâm.
- Thời gian không chắc chắn: các nghiên cứu không thể tách biệt rõ ràng các rối loạn tâm thần như yếu tố nguy cơ nguyên nhân từ các biểu hiện sớm của bệnh AD. AD sớm có thể xuất hiện với các triệu chứng tâm trạng và lo âu trước khi có sự suy giảm nhận thức rõ ràng.
- Sai lệch trong việc chỉ định và xác định: UCSF MAC là một trung tâm nhớ cấp ba nơi các bệnh nhân có bệnh không điển hình hoặc khởi phát sớm và lịch sử tâm thần phức tạp có thể bị đại diện quá mức. NACC bổ sung chiều rộng nhưng vẫn giữ các mô hình chỉ định trung tâm nghiên cứu.
- Sơ hở còn sót lại: các yếu tố lối sống, địa vị kinh tế-xã hội, các yếu tố nguy cơ mạch máu, tiếp xúc thuốc (bao gồm thuốc tâm thần), và nguy cơ di truyền (ví dụ, APOE ε4) có thể ảnh hưởng đến cả rối loạn tâm thần và khởi phát mất trí nhớ nhưng không được đề cập đầy đủ trong dữ liệu tóm tắt được trình bày.
- Tỷ lệ mắc rối loạn lưỡng cực, rối loạn tâm thần phân liệt, và PTSD thấp trong các nhóm này giảm độ chính xác cho các chẩn đoán này và tạo ra khả năng rằng các ước tính cho các rối loạn hiếm gặp là không ổn định.
Những Ý Nghĩa Lâm Sàng và Đề Xuất Thực Tế
Đối với các bác sĩ làm việc trong lĩnh vực thần kinh học, tâm thần học, geriatri và chăm sóc chính, một số điểm thực tế nổi bật:
- Đánh giá hệ thống lịch sử tâm thần ở bệnh nhân đến các trung tâm nhớ hoặc những người có nguy cơ suy giảm nhận thức. Lịch sử tâm thần suốt đời chi tiết (tuổi khởi phát, diễn biến, đáp ứng điều trị, và gánh nặng triệu chứng hiện tại) có thể cung cấp thông tin cho các cuộc trò chuyện dự báo và phân loại rủi ro.
- Nhận biết sự đồng mắc tâm thần là một dấu hiệu tiềm năng của khả năng mắc AD sớm hơn. Mặc dù không xác định được mối liên hệ nhân quả, gánh nặng tâm thần cao có thể thúc đẩy giám sát nhận thức dài hạn chặt chẽ hơn và xem xét sớm hơn việc đánh giá các dấu sinh học nếu cần.
- Điều trị tích cực các yếu tố có thể điều chỉnh gây ra cả rối loạn tâm thần và suy giảm nhận thức – kiểm soát các yếu tố nguy cơ mạch máu, điều trị các rối loạn giấc ngủ, tối ưu hóa hỗ trợ xã hội, và điều trị có bằng chứng về các rối loạn tâm trạng và lo âu – nhận thức rằng các can thiệp này có thể có lợi cho sức khỏe tổng thể của não ngay cả khi tác động của chúng đối với thời gian khởi phát AD chưa được chứng minh.
- Cẩn thận khi quy cho các triệu chứng tâm thần mới hoặc nặng hơn ở giữa cuộc đời hoặc sau này chỉ là rối loạn tâm thần chính; cân nhắc các nguyên nhân thoái hóa thần kinh khi các triệu chứng không điển hình, kháng điều trị, hoặc đi kèm với các thay đổi nhận thức hoặc hành vi tinh tế.
Những Ý Nghĩa Nghiên Cứu và Các Bước Tiếp Theo
Các kết quả nhấn mạnh một số lĩnh vực ưu tiên cho nghiên cứu trong tương lai:
- Nghiên cứu dựa trên dân số triển vọng sử dụng các công cụ chuẩn hóa để thu thập các chẩn đoán tâm thần, thời gian khởi phát, thời gian kéo dài, mức độ nghiêm trọng và tiếp xúc điều trị để kiểm tra thời gian và các con đường nguyên nhân tiềm năng.
- Tích hợp dữ liệu dấu sinh học (amyloid, tau PET; dấu sinh học CSF hoặc huyết tương; các biện pháp MRI về teo và bệnh mạch máu não) để xác định xem các rối loạn tâm thần có dự đoán sự biểu hiện lâm sàng sớm của bệnh lý AD hay không hoặc các con đường độc lập dẫn đến suy giảm nhận thức.
- Nghiên cứu trong các dân số có tỷ lệ mắc PTSD cao (ví dụ, cựu chiến binh quân đội) để kiểm chứng các ước tính hiệu ứng lớn được quan sát và khám phá các cơ chế như các tiếp xúc stress lặp đi lặp lại và rối loạn nội tiết thần kinh.
- Thử nghiệm ngẫu nhiên hoặc thực tế thử nghiệm xem xét liệu việc chăm sóc tâm thần tối ưu và giảm thiểu các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh có thể làm chậm sự suy giảm nhận thức hay trì hoãn thời gian khởi phát triệu chứng ở những người có nguy cơ.
Kết Luận
Nghiên cứu của Eijansantos et al. bổ sung vào bằng chứng ngày càng tăng cho thấy các rối loạn tâm thần – đặc biệt là trầm cảm, lo âu và PTSD – có liên quan đến sự khởi phát lâm sàng sớm của bệnh Alzheimer và rằng gánh nặng tâm thần tích lũy có mối liên quan với sự xuất hiện sớm dần của các triệu chứng. Mặc dù các con đường nguyên nhân vẫn cần được làm rõ, các dữ liệu này hỗ trợ việc đánh giá tâm thần kỹ lưỡng trong các nhóm trung tâm nhớ, cảnh giác cao hơn đối với các thay đổi nhận thức ở bệnh nhân có lịch sử tâm thần đáng kể, và tiếp cận đa ngành giải quyết các yếu tố nguy cơ tâm thần và mạch máu như một phần của các chiến lược sức khỏe não.
Nguồn Tài Trợ và clinicaltrials.gov
Nguồn tài trợ được báo cáo trong bản công bố gốc (xem tham khảo). Không có đăng ký clinicaltrials.gov áp dụng cho phân tích nhóm hồi cứu này; các nghiên cứu can thiệp triển vọng giải quyết việc điều chỉnh rủi ro tâm thần sẽ yêu cầu đăng ký thử nghiệm phù hợp.
Tham Khảo
1) Eijansantos E, Allen IE, de Leon J, Grasso S, Rogers N, Bogley R, Paramo A, Ehrenberg AJ, Montembeault M, Sturm V, Spina S, Grinberg LT, Seeley WW, Rankin KP, Kramer JH, Rosen HJ, Rabinovici GD, Gorno-Tempini ML, Miller BL, Perry DC, Miller ZA. Burden of psychiatric disease inversely correlates with Alzheimer’s age at onset. Alzheimers Dement. 2025 Oct;21(10):e70677. doi: 10.1002/alz.70677. PMID: 41131662; PMCID: PMC12549220.
2) Ownby RL, Crocco E, Acevedo A, John V, Loewenstein D. Depression and risk for Alzheimer disease: systematic review, meta-analysis, and metaregression analysis. Arch Gen Psychiatry. 2006 May;63(5):530-538. doi:10.1001/archpsyc.63.5.530.
3) Diniz BS, Butters MA, Albert SM, Dew MA, Reynolds CF 3rd. Late-life depression and risk of vascular dementia and Alzheimer’s disease: Systematic review and meta-analysis of community-based cohort studies. Br J Psychiatry. 2013 May;202(5):329-335. doi:10.1192/bjp.bp.112.118307.

