Nhấn mạnh
• Trong một nhóm đăng ký CIBMTR lớn (n = 7.116) của bệnh nhân nhận ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại (HCT) với cyclophosphamide sau ghép (PTCy), tuổi của người cho dưới 30 tuổi liên quan đến sự sống sót khỏi GVHD và tái phát (GRFS) tốt hơn so với người cho ≥30 tuổi, bất kể loại người cho (haploidentical hay không liên quan mismatches [MMUD]).
• Người cho MMUD lớn tuổi (≥30 tuổi) có GRFS kém hơn, TRM cao hơn và GVHD cấp độ III–IV nhiều hơn so với người cho haploidentical trẻ tuổi; ngược lại, người cho MMUD trẻ tuổi (<30 tuổi) có lợi thế nhỏ hơn so với người cho haploidentical lớn tuổi, bao gồm GVHD cấp độ thấp hơn và GVHD mãn tính.
Nền tảng
Ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại vẫn là liệu pháp có thể chữa khỏi nhiều bệnh ác tính huyết học. Khi không có người cho đồng loại HLA hoàn toàn phù hợp hoặc 10/10 không liên quan, hai lựa chọn phổ biến là người cho gia đình HLA-haploidentical và người cho không liên quan mismatches (MMUDs). Cyclophosphamide sau ghép (PTCy) đã thay đổi biện pháp dự phòng GVHD, cho phép sử dụng rộng rãi hơn cả ghép haploidentical và không liên quan mismatches với tỷ lệ GVHD chấp nhận được.
Tuổi của người cho là yếu tố xác định rõ ràng kết quả HCT: người cho trẻ tuổi thường mang lại tỷ lệ tử vong không do tái phát thấp hơn, GVHD giảm và sống sót tổng thể tốt hơn. Tuy nhiên, dữ liệu so sánh hướng dẫn việc lựa chọn giữa một người cho MMUD trẻ tuổi và một người cho haploidentical lớn tuổi (và ngược lại) trong thời kỳ PTCy hiện đại rất ít. Nghiên cứu của Mehta et al. (Transplant Cell Ther. 2025) giải quyết câu hỏi lâm sàng thực tế này bằng cách sử dụng một nhóm đăng ký lớn.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là phân tích hồi cứu của 7.116 bệnh nhân trưởng thành và nhi khoa mắc bệnh ác tính huyết học được báo cáo cho Trung tâm Nghiên cứu Ghép Máu Quốc tế (CIBMTR) đã trải qua HCT từ năm 2013 đến 2021 sử dụng biện pháp dự phòng GVHD dựa trên PTCy. Các cặp người cho-người nhận được phân loại theo loại người cho và tuổi người cho thành bốn nhóm: haploidentical trẻ tuổi (<30 tuổi), haploidentical lớn tuổi (≥30 tuổi), MMUD trẻ tuổi (<30 tuổi), và MMUD lớn tuổi (≥30 tuổi).
Mục tiêu chính là GRFS, kết quả tổng hợp được định nghĩa là sống sót mà không có GVHD cấp độ III–IV, GVHD mãn tính yêu cầu điều trị ức chế miễn dịch toàn thân (IST), tái phát, hoặc tử vong. Mục tiêu phụ bao gồm sống sót tổng thể (OS), TRM, tái phát, GVHD cấp độ III–IV, GVHD mãn tính tổng thể, và GVHD mãn tính yêu cầu IST.
Sự so sánh tập trung vào hai cặp lâm sàng liên quan sử dụng mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox đa biến: (1) MMUD trẻ tuổi so với haploidentical lớn tuổi và (2) haploidentical trẻ tuổi so với MMUD lớn tuổi. Các mô hình điều chỉnh cho các biến số bệnh, bệnh lý, và ghép có sẵn trong đăng ký.
Kết quả chính
Các kết quả định lượng chính được báo cáo trong các phân tích đa biến là:
- MMUD lớn tuổi (≥30 tuổi) so với haploidentical trẻ tuổi (<30 tuổi): GRFS kém hơn (HR 1.20; 95% CI 1.06–1.36; P = .003), TRM cao hơn (HR 1.49; 95% CI 1.13–1.96; P = .005), và GVHD cấp độ III–IV tăng (HR 2.88; 95% CI 1.43–5.80; P = .003).
- MMUD trẻ tuổi (<30 tuổi) so với haploidentical lớn tuổi (≥30 tuổi): cải thiện GRFS nhẹ (HR 0.87; 95% CI 0.78–0.98; P = .02) và giảm đáng kể GVHD cấp độ II–IV (HR 0.67; 95% CI 0.51–0.88; P = .003) và GVHD mãn tính (HR 0.78; 95% CI 0.65–0.94; P = .009).
Tóm lại, tuổi của người cho <30 tuổi liên quan đến kết quả tổng hợp và thành phần tốt hơn trong các so sánh, và MMUD lớn tuổi mang lại kết quả kém hơn đáng kể so với haploidentical trẻ tuổi trong nhóm này được điều trị bằng PTCy.
Giải thích lâm sàng về kích thước hiệu ứng
Các tỷ lệ nguy cơ chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng. Ví dụ, tăng 20% tương đối nguy cơ cho kết quả tổng hợp (GRFS) cho MMUD lớn tuổi so với haploidentical trẻ tuổi cho thấy rằng, khi có thể, việc chọn người cho trẻ tuổi có thể chuyển hóa thành tự do khỏi GVHD nặng, tái phát, và tử vong tốt hơn. Tăng gần gấp ba lần nguy cơ GVHD cấp độ III–IV với MMUD lớn tuổi (HR 2.88) đặc biệt nổi bật và có thể có ý nghĩa thực tế đối với mức độ nghiêm trọng của ghép và việc sử dụng tài nguyên.
Bình luận chuyên gia và cơ chế giả định
Tại sao tuổi của người cho lại có ảnh hưởng mạnh mẽ như vậy trong các loại người cho? Cơ sở sinh học bao gồm nhiều cơ chế: người cho trẻ tuổi thường có dự trữ tế bào gốc tạo máu mạnh mẽ hơn, ít tiếp xúc môi trường tích lũy và lão hóa miễn dịch, một compartiment T-cell với ít tế bào T nhớ gây viêm hơn, và có thể có hồ sơ cytokine khác nhau. Những đặc điểm này có thể giảm phản ứng đồng loại và các biến chứng liên quan đến engraftment và cải thiện tái lập miễn dịch.
Lâm sàng, kết quả phù hợp với các quan sát trước đây rằng tuổi của người cho thường vượt qua các đặc điểm khác của người cho trong các mô hình đa biến dự đoán kết quả ghép. Nghiên cứu hiện tại mở rộng nguyên tắc đó cụ thể cho các quyết định giữa ghép haploidentical và MMUD trong thời kỳ PTCy, đề xuất rằng tuổi của người cho nên là yếu tố quan trọng khi có nhiều lựa chọn người cho không hoàn hảo.
Điểm mạnh
- Mẫu có kích thước lớn từ một đăng ký chất lượng cao bao gồm thực hành thời kỳ PTCy gần đây (2013–2021), nâng cao sức mạnh thống kê và liên quan hiện đại.
- Tập trung vào các so sánh có ý nghĩa lâm sàng, phản ánh các lựa chọn người cho thực tế mà các trung tâm ghép gặp phải.
- Sử dụng GRFS làm kết quả tổng hợp bao gồm cả tái phát và GVHD lâm sàng quan trọng, thu thập các kết quả hướng đến bệnh nhân ngoài OS đơn thuần.
Hạn chế
- Thiết kế đăng ký hồi cứu: dễ bị thiên lệch lựa chọn và nhiễu còn lại mặc dù điều chỉnh đa biến. Việc lựa chọn người cho bị ảnh hưởng bởi các yếu tố không luôn được ghi lại trong đăng ký (ví dụ, khoảng thời gian có sẵn người cho, ưu tiên của trung tâm, bệnh lý của người cho, yếu tố kinh tế-xã hội).
- Sự không đồng nhất trong cường độ điều kiện, nguồn gốc ghép (tuỷ xương vs tế bào gốc máu ngoại vi), mức độ và hướng không phù hợp HLA, tình trạng đồng nhiễm CMV, và các đặc điểm khác của người cho có thể tương tác với tuổi nhưng được ghi lại và điều chỉnh một cách biến đổi.
- Dữ liệu cơ chế hạn chế: phân tích đăng ký không thể khám phá các khác biệt về hình thái miễn dịch hoặc chức năng trong các ghép để làm rõ nguyên nhân.
- Tính tổng quát: kết quả áp dụng cho biện pháp dự phòng GVHD dựa trên PTCy; kết luận có thể không mở rộng sang các chế độ dự phòng khác hoặc các cài đặt có cơ sở hỗ trợ khác.
Những ý nghĩa thực tế cho việc lựa chọn người cho
Trong phạm vi khả năng và cấp bách, nghiên cứu ủng hộ việc ưu tiên tuổi của người cho <30 tuổi khi lựa chọn giữa người cho haploidentical và MMUD cho bệnh nhân nhận dự phòng PTCy. Các gợi ý quyết định thực tế:
- Nếu cả MMUD trẻ tuổi (<30) và haploidentical lớn tuổi (≥30) đều có sẵn, MMUD trẻ tuổi đã thể hiện lợi thế nhẹ cho GRFS và GVHD mãn tính thấp hơn và có thể được ưu tiên.
- Nếu haploidentical trẻ tuổi (<30) có sẵn nhưng MMUD lớn tuổi (≥30), haploidentical trẻ tuổi có thể có lợi hơn do TRM cao hơn và GVHD cấp độ III–IV cao hơn được quan sát ở MMUD lớn tuổi.
- Khi sự chênh lệch tuổi của người cho nhỏ hoặc các yếu tố khác (ví dụ, sức khỏe của người cho, tương thích ABO, xem xét địa lý/vận chuyển, thời gian có sẵn người cho) mạnh mẽ ủng hộ một người cho, những yếu tố thực tế đó vẫn nên hướng dẫn việc lựa chọn.
- Các trung tâm nên tích hợp tuổi của người cho vào các thuật toán lựa chọn người cho chính thức cùng với việc phù hợp HLA, nguồn gốc ghép, giới tính/người cho, và tình trạng CMV thay vì coi tuổi là yếu tố phụ.
Các khoảng trống nghiên cứu và chính sách
Các bước tiếp theo quan trọng bao gồm các nghiên cứu triển vọng chi tiết hơn về các đặc điểm của ghép (liều lượng tế bào, các nhóm tế bào miễn dịch), các tương quan cơ chế của lão hóa miễn dịch, và các kết quả do bệnh nhân báo cáo. Các thử nghiệm ngẫu nhiên về lựa chọn người cho khó có thể thực hiện được, nhưng các nhóm triển vọng đa trung tâm hoặc các nghiên cứu dịch chuyển lồng ghép có thể giúp làm rõ nguyên nhân. Ngoài ra, các hướng dẫn lựa chọn người cho đồng bộ hóa incorporage ngưỡng tuổi và cân nhắc rủi ro giữa các nguồn người cho sẽ hỗ trợ các bác sĩ.
Kết luận
Phân tích đăng ký CIBMTR của Mehta et al. cung cấp bằng chứng chắc chắn, hiện đại rằng tuổi của người cho <30 tuổi liên quan đến GRFS tốt hơn và TRM và GVHD thấp hơn trong cả người cho haploidentical và không liên quan mismatches trong thời kỳ PTCy. Những kết quả này lập luận cho việc đưa trọng lượng đáng kể vào tuổi của người cho trong việc lựa chọn người cho thực tế khi có nhiều lựa chọn người cho không hoàn hảo. Các bác sĩ nên cân nhắc tuổi của người cho cùng với các yếu tố khác của người cho và bệnh nhân, và cần thêm các nghiên cứu triển vọng và cơ chế để tinh chỉnh các thuật toán lựa chọn người cho hơn nữa.
Tài trợ và clinicaltrials.gov
Tài trợ và xung đột lợi ích được báo cáo trong ấn phẩm gốc: Mehta RS et al., Transplant Cell Ther. 2025. Người đọc nên tham khảo bài viết đã xuất bản để biết thông tin hỗ trợ cấp tài trợ cụ thể và các tiết lộ của tác giả. Phân tích này sử dụng dữ liệu đăng ký quan sát và không được đăng ký như một thử nghiệm lâm sàng can thiệp trên ClinicalTrials.gov.
Tham khảo
1. Mehta RS, Schmidt G, Williams K, et al. Choosing Between HLA-Mismatched Unrelated and Haploidentical Donors: Donor Age Considerations. Transplant Cell Ther. 2025 Sep;31(9):680-692. doi: 10.1016/j.jtct.2025.05.019. Epub 2025 May 24. PMID: 40419020; PMCID: PMC12403200.
Hình ảnh Thumbnail
Một minh họa lâm sàng về quyết định ghép tế bào gốc tạo máu: hình ảnh màn hình chia đôi hiển thị (trái) một người cho trẻ tuổi mỉm cười cầm bảng và túi máu, và (phải) một sơ đồ được thiết kế của một ghép HCT đi vào người nhận với các biểu tượng chồng lên nhau cho đường cong sống sót và lá chắn GVHD; màu sắc lâm sàng dịu dàng, nền bệnh viện mờ, phong cách thực tế.

