Các liệu pháp vật lý cho thấy hứa hẹn trong việc điều trị tiểu không tự chủ ở phụ nữ lớn tuổi, nhưng bằng chứng vẫn còn yếu

Các liệu pháp vật lý cho thấy hứa hẹn trong việc điều trị tiểu không tự chủ ở phụ nữ lớn tuổi, nhưng bằng chứng vẫn còn yếu

Tóm tắt

  • Các liệu pháp vật lý, bao gồm tập luyện cơ sàn chậu, có thể hiệu quả nhất trong việc chữa khỏi tiểu không tự chủ ở phụ nữ lớn tuổi, mặc dù độ tin cậy của bằng chứng còn thấp.
  • Các biện pháp điều trị dược lý, như các chất kích thích thụ thể β3-adrenergic và kháng muscarinic, mang lại khả năng cải thiện nhưng đi kèm với một số rủi ro tác dụng phụ.
  • Các phương pháp bảo tồn không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào, khẳng định tính an toàn của chúng.
  • Bằng chứng chưa đủ để xác định một phương pháp điều trị tối ưu, cho thấy cần thiết phải tiến hành các thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn và chất lượng cao hơn.

Nền tảng

Việc tiểu không tự chủ là một tình trạng phổ biến và thường bị bỏ qua ở phụ nữ từ 60 tuổi trở lên. Tình trạng này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, gây ra sự khó chịu về thể chất, rút lui xã hội, căng thẳng về mặt cảm xúc và tăng cường sử dụng dịch vụ y tế. Dù phổ biến, nhiều phụ nữ lớn tuổi không nhận được điều trị hiệu quả. Các lựa chọn quản lý bao gồm các chiến lược bảo tồn, như tập luyện cơ sàn chậu, các biện pháp can thiệp dược lý, bao gồm các chất kích thích thụ thể β3-adrenergic và kháng muscarinic, và các giải pháp phẫu thuật. Tuy nhiên, bằng chứng so sánh mạnh mẽ về hiệu quả và an toàn trong nhóm dân số cụ thể này đã thiếu.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tổng quan hệ thống Cochrane và phân tích mạng lưới meta này đã đánh giá các thử nghiệm ngẫu nhiên kiểm soát (RCT) điều tra các phương pháp điều trị bảo tồn, dược lý và phẫu thuật cho tiểu không tự chủ ở phụ nữ từ 60 tuổi trở lên. Tổng quan bao gồm 43 RCT với 8.506 người tham gia. Kết quả chính là ‘chữa khỏi’ và ‘chữa khỏi hoặc cải thiện’ các triệu chứng tiểu không tự chủ. Kết quả phụ đánh giá các sự cố bất lợi nghiêm trọng (SAE). Tìm kiếm được thực hiện kỹ lưỡng, bao gồm các cơ sở dữ liệu y tế chính, các đăng ký thử nghiệm và các bản ghi hội nghị đến ngày 23 tháng 3 năm 2025. Các thử nghiệm được đánh giá sử dụng công cụ Đánh giá Rủi ro Nghiên cứu Cochrane 2.

Kết quả chính

Hiệu quả – Kết quả: Chữa khỏi

Sau khi loại bỏ các thử nghiệm phẫu thuật để đảm bảo phân tích mạng lưới kết nối, kết quả ủng hộ các can thiệp bảo tồn, đặc biệt là các liệu pháp vật lý:

  • Các liệu pháp vật lý + liệu pháp bổ trợ: OR 17.79 (95% CI 2.97–106.46; 1 nghiên cứu, 71 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Các liệu pháp vật lý đơn thuần: OR 7.20 (95% CI 2.59–20.03; 4 nghiên cứu, 310 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Các liệu pháp vật lý + giáo dục: OR 3.25 (95% CI 1.19–8.84; 4 nghiên cứu, 364 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Liệu pháp bổ trợ đơn thuần: OR 4.65 (95% CI 0.74–29.37; 1 nghiên cứu, 37 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Giáo dục đơn thuần: OR 2.68 (95% CI 0.61–11.73; 2 nghiên cứu, 180 người tham gia; bằng chứng ít tin cậy).

Xếp hạng SUCRA đề xuất rằng các liệu pháp vật lý, đặc biệt là khi kết hợp với các can thiệp bổ trợ, có khả năng hiệu quả nhất, mặc dù độ tin cậy thấp do mẫu nhỏ và không chính xác.

Hiệu quả – Kết quả: Chữa khỏi hoặc Cải thiện

  • Các liệu pháp vật lý: OR 3.98 (95% CI 2.02–7.82; 3 nghiên cứu, 197 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Các liệu pháp vật lý + giáo dục: OR 3.20 (95% CI 1.45–7.02; 3 nghiên cứu, 236 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Các chất kích thích thụ thể β3-adrenergic: OR 2.44 (95% CI 1.28–4.62; 1 nghiên cứu, 360 người tham gia; bằng chứng rất ít tin cậy).
  • Giáo dục: OR 2.09 (95% CI 1.05–4.17; 2 nghiên cứu, 213 người tham gia).
  • Kháng muscarinic: OR 1.90 (95% CI 1.19–3.03; 2 nghiên cứu, 1469 người tham gia).

Các can thiệp liệu pháp vật lý đạt được điểm SUCRA cao hơn (90% cho liệu pháp vật lý, 77% cho liệu pháp vật lý + giáo dục) so với các lựa chọn dược lý (các chất kích thích thụ thể β3-adrenergic: 63%), củng cố hiệu quả tương đối của chúng trong việc cải thiện triệu chứng.

An toàn – Sự cố bất lợi nghiêm trọng

Không có sự cố bất lợi nghiêm trọng nào được báo cáo cho các phương pháp điều trị bảo tồn. Các biện pháp điều trị dược lý cho thấy các SAE thỉnh thoảng, nhưng sự khác biệt giữa nhóm hoạt động và nhóm đối chứng không có ý nghĩa thống kê:

  • Inhibitors tái hấp thu serotonin-norepinephrine: OR 0.40 (95% CI 0.10–1.59).
  • Các chất kích thích thụ thể β3-adrenergic: OR 0.61 (95% CI 0.04–10.19).
  • Kháng muscarinic: OR 0.81 (95% CI 0.46–1.42).
  • Các liệu pháp vật lý + giáo dục: OR 0.99 (95% CI 0.10–9.80).

Bình luận chuyên gia

Các kết quả nhấn mạnh tiềm năng vượt trội của các liệu pháp vật lý trong việc đạt được sự kiểm soát tiểu hoặc cải thiện đáng kể triệu chứng ở phụ nữ lớn tuổi, với hồ sơ an toàn thuận lợi. Khả năng hợp lý về sinh học của việc tập luyện cơ sàn chậu liên quan đến việc tăng cường cơ levator ani và các cấu trúc hỗ trợ niệu đạo, từ đó cải thiện áp lực đóng niệu đạo trong các sự kiện gây stress. Tuy nhiên, độ tin cậy rất thấp đến thấp của bằng chứng đòi hỏi sự thận trọng trong việc diễn giải các xếp hạng này. Các hạn chế là đáng kể: các can thiệp khác nhau, dân số nghiên cứu nhỏ, chất lượng báo cáo kém và loại trừ dữ liệu phẫu thuật. Hướng dẫn hiện tại ủng hộ việc tập luyện cơ sàn chậu là liệu pháp đầu tiên cho tiểu không tự chủ, và các kết quả này hòa hợp với khuyến nghị đó đồng thời nhấn mạnh nhu cầu về các thử nghiệm so sánh trực tiếp chất lượng cao.

Kết luận

Các liệu pháp vật lý, đặc biệt là tập luyện cơ sàn chậu có hoặc không có các cách tiếp cận bổ trợ, có vẻ hứa hẹn nhất trong việc quản lý tiểu không tự chủ ở phụ nữ từ ≥60 tuổi. Các lựa chọn dược lý mang lại lợi ích nhưng đi kèm với một số lo ngại về an toàn. Do độ tin cậy yếu của bằng chứng, các bác sĩ nên cá nhân hóa quyết định điều trị dựa trên sở thích của bệnh nhân, bệnh lý phối hợp và khả năng tiếp cận. Nghiên cứu trong tương lai nên ưu tiên các thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn và chất lượng cao với việc báo cáo kết quả tiêu chuẩn hóa để hướng dẫn thực hành một cách quyết định.

Tài trợ và Đăng ký

Nghiên cứu đã đăng ký trong Cơ sở dữ liệu Tổng quan Hệ thống Cochrane.

Tham chiếu:

Vesentini G et al. Cochrane Database Syst Rev. 2025 Nov 27;11(11):CD015376. doi:10.1002/14651858.CD015376.pub2 IF: 9.4 Q1

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận