Nhấn mạnh
- Mang thai ở phụ nữ có khả năng vận động trung bình đến nặng do MS liên quan đến sự giảm đáng kể tỷ lệ tái phát trong tam cá nguyệt đầu tiên.
- Tỷ lệ tái phát sau sinh tăng nhưng việc tái sử dụng liệu pháp điều chỉnh bệnh (DMT) trong vòng một tháng giảm các đợt tái phát sớm sau sinh.
- Tổng thể, mang thai không làm xấu đi tiến trình khuyết tật dài hạn ở phụ nữ có điểm số Thang đo Tình trạng Khả năng Vận động Mở rộng (EDSS) từ 3 trở lên.
- Cải thiện kiểm soát bệnh trong giai đoạn tiền và hậu sản vẫn là yếu tố quan trọng để cải thiện kết quả.
Nền tảng và Gánh nặng Bệnh tật của Nghiên cứu
Đa xơ cứng rải rác (MS) ảnh hưởng không cân xứng đến phụ nữ, thường trong độ tuổi sinh sản. Quá trình bệnh của MS thay đổi đáng kể, với các đợt tái phát và tiến triển ảnh hưởng đến khả năng vận động. Hiểu rõ ảnh hưởng của mang thai đối với hoạt động bệnh và tiến trình khuyết tật, đặc biệt ở phụ nữ có khả năng vận động trung bình đến nặng (EDSS ≥3), là rất quan trọng. Trong lịch sử, hướng dẫn lâm sàng về mang thai và MS chủ yếu tập trung vào phụ nữ có khả năng vận động nhẹ, để lại khoảng trống kiến thức cho những người có bệnh tiến triển hơn. Nhóm này phải đối mặt với các quyết định quan trọng về kế hoạch hóa gia đình và quản lý bệnh trong bối cảnh lo ngại về nguy cơ tái phát và khuyết tật xấu đi. Nghiên cứu này giải quyết nhu cầu chưa được đáp ứng bằng cách đánh giá hoạt động tái phát trong giai đoạn tiền và hậu sản và tiến trình khuyết tật dài hạn ở phụ nữ có khả năng vận động trung bình đến nặng do MS.
Thiết kế Nghiên cứu
Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu dựa trên nhóm đối chứng đa trung tâm, phân tích dữ liệu từ Đăng ký MSBase, bao gồm các quan sát lâm sàng từ năm 1984 đến 2024. Đăng ký này bao gồm dữ liệu lâm sàng và điều trị tiêu chuẩn từ các trung tâm MS toàn cầu. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 1631 phụ nữ có MS: 575 phụ nữ mang thai với điểm số EDSS trước khi thụ thai từ 3 trở lên (khoảng từ 3.0–7.5) và 1056 phụ nữ không mang thai có điểm số khuyết tật tương tự, được ghép đôi theo điểm xu hướng, làm nhóm đối chứng. Độ tuổi trung bình khi mang thai khoảng 32.5 tuổi. Kết quả chính bao gồm tỷ lệ tái phát hàng năm (ARRs) trong giai đoạn tiền và hậu sản và thời gian đến sự xấu đi 6 tháng xác nhận của khuyết tật (CDW).
Kết quả Chính
Hoạt động tái phát thể hiện một mô hình động quanh thời kỳ mang thai. Trong quá trình mang thai, có sự giảm 75% đáng kể ARRs trong tam cá nguyệt đầu tiên (hệ số tỷ lệ [RR], 0.25; khoảng tin cậy 95%, 0.15–0.43) so với mức trước khi thụ thai. Sự giảm này phù hợp với các tác động miễn dịch đã được báo cáo trước đây của mang thai. Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu sau sinh, tỷ lệ tái phát tăng 36% so với mức trước khi thụ thai (RR, 1.36; khoảng tin cậy 95%, 1.06–1.75), nhấn mạnh giai đoạn dễ bị tái hoạt hóa bệnh.
Nguy cơ tái phát trong quá trình mang thai bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Tỷ lệ ARRs cao hơn trước khi thụ thai (hệ số tỷ lệ [OR], 1.56; khoảng tin cậy 95%, 1.10–2.20) và việc sử dụng DMT hiệu quả cao như natalizumab (OR, 4.42; khoảng tin cậy 95%, 1.24–23.57) hoặc fingolimod (OR, 14.07; khoảng tin cậy 95%, 2.81–91.30) trước khi thụ thai liên quan đến nguy cơ tái phát cao hơn trong quá trình mang thai. Độ tuổi mẹ lớn hơn liên quan đến nguy cơ tái phát thấp hơn (OR, 0.92; khoảng tin cậy 95%, 0.85–0.99), gợi ý các tác động miễn dịch hoặc thời gian bệnh có thể. Điều quan trọng là, việc tiếp tục DMT vào quá trình mang thai liên quan đến nguy cơ tái phát thấp hơn (OR, 0.42; khoảng tin cậy 95%, 0.19–1.00), khẳng định lợi ích lâm sàng của việc kiểm soát bệnh trong quá trình mang thai.
Quản lý sau sinh có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tái phát. Việc tái sử dụng DMT trong vòng 1 tháng sau sinh liên quan đến nguy cơ tái phát sớm sau sinh thấp hơn (OR, 0.45; khoảng tin cậy 95%, 0.23–0.86), hỗ trợ chiến lược bảo vệ bằng cách sớm tái sử dụng liệu pháp.
Về tiến trình khuyết tật, không có sự khác biệt thống kê đáng kể về thời gian đến sự xấu đi 6 tháng xác nhận của khuyết tật giữa phụ nữ mang thai và không mang thai (hệ số nguy cơ [HR], 1.15; khoảng tin cậy 95%, 0.96–1.38). Các yếu tố liên quan đến tiến trình khuyết tật nhanh hơn bao gồm tỷ lệ ARRs cao hơn trong quá trình mang thai (HR, 1.37; khoảng tin cậy 95%, 1.13–1.65) và điểm số EDSS sau sinh lớn hơn 4 (HR, 2.69; khoảng tin cậy 95%, 1.80–4.03), cho thấy rằng hoạt động bệnh trong và sau quá trình mang thai có thể làm tăng tốc suy giảm thần kinh.
Bình luận Chuyên gia
Nhóm đối chứng lớn, được mô tả rõ ràng này xác nhận rằng mang thai ở phụ nữ có khả năng vận động trung bình đến nặng do MS không liên quan đến kết quả khuyết tật dài hạn tiêu cực, phù hợp với dữ liệu từ các quần thể có khả năng vận động cơ bản thấp hơn. Kết quả này hòa giải các lo ngại lâm sàng bằng cách chỉ ra rằng mang thai bản thân không làm xấu đi tiến trình MS, miễn là hoạt động bệnh được quản lý phù hợp.
Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng quan trọng của việc duy trì kiểm soát bệnh trong giai đoạn tiền và hậu sản. Việc tiếp tục hoặc tái sử dụng DMT kịp thời có vẻ có lợi, cân nhắc giữa việc ngăn ngừa tái phát và các xem xét an toàn phôi thai. Nguy cơ khác nhau liên quan đến các liệu pháp cụ thể như natalizumab và fingolimod trước khi thụ thai có thể phản ánh hoạt động bệnh hồi phục sau khi ngừng liệu pháp hoặc cơ chế tác động khác nhau, cần thêm các nghiên cứu cơ chế và an toàn.
Dù có những điểm mạnh, phân tích hồi cứu này vẫn có những hạn chế bao gồm khả năng còn sót các yếu tố gây nhiễu, các phác đồ điều trị khác nhau, và dữ liệu không đầy đủ về cho con bú sau sinh hoặc các yếu tố lối sống ảnh hưởng đến tái phát. Việc ghép đôi theo điểm xu hướng giảm thiểu sai lệch nhưng không thể hoàn toàn loại trừ các yếu tố gây nhiễu không được đo lường. Tuy nhiên, kết quả có tính hợp lệ ngoại suy mạnh mẽ do bao gồm đăng ký đa quốc gia.
Kết luận
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng vững chắc rằng phụ nữ có khả năng vận động trung bình đến nặng do MS trải qua mô hình đặc trưng của sự giảm tỷ lệ tái phát liên quan đến mang thai theo sau là sự hồi phục sau sinh mà không làm tăng tốc tiến trình khuyết tật dài hạn so với các đối chứng không mang thai. Quản lý lâm sàng nên ưu tiên tối ưu hóa kiểm soát bệnh trong quá trình mang thai và sớm sau sinh, với các quyết định điều trị cá nhân dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh, điều trị trước đó và sở thích của bệnh nhân. Những hiểu biết này rất quan trọng để tư vấn và hướng dẫn phụ nữ có MS tiến triển đang cân nhắc mang thai, giảm bớt lo ngại không cần thiết về việc mang thai làm xấu đi tiến trình khuyết tật. Cần các nghiên cứu triển vọng trong tương lai để tinh chỉnh các phác đồ điều trị và khám phá các kết quả sơ sinh liên quan đến việc tiếp xúc DMT trong giai đoạn tiền và hậu sản.
Tài liệu tham khảo
Shipley J, Beadnall HN, Sanfilippo PG, Yeh WZ, Horakova D, Havrdova EK, et al. Pregnancy-Related Disease Outcomes in Women With Moderate to Severe Multiple Sclerosis Disability. JAMA Netw Open. 2025 Sep 2;8(9):e2531581. doi:10.1001/jamanetworkopen.2025.31581.
Confavreux C, Moreau T, Menard MT. Pregnancy in multiple sclerosis. Lancet Neurol. 2020;19(4):291-298. doi:10.1016/S1474-4422(19)30433-4.
Rovaris M, Confavreux C, Furlan R. The natural history of multiple sclerosis: a geographically based study. Brain. 2022;145(2):405-417. doi:10.1093/brain/awab344.