Nổi bật
- Chương trình vật lý trị liệu (PT) theo nhóm cung cấp một phương pháp điều trị hiệu quả và tiết kiệm cho bệnh nhân bị viêm khớp gối (OA).
- Thử nghiệm ngẫu nhiên theo cụm này so sánh hỗ trợ cơ bản đơn thuần với hỗ trợ cơ bản cộng thêm hỗ trợ triển khai tăng cường (bao gồm sự hỗ trợ từ bên ngoài) để triển khai PT theo nhóm tại các phòng khám ngoại trú của Bộ Cựu chiến binh (VA).
- Hỗ trợ tăng cường không cải thiện đáng kể tỷ lệ đăng ký bệnh nhân (xâm nhập) so với hỗ trợ cơ bản đơn thuần.
- Tỷ lệ tuân thủ các buổi điều trị cao, nhưng tổng số bệnh nhân được giới thiệu và đăng ký vẫn ở mức khiêm tốn, làm nổi bật những thách thức trong việc triển khai.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Viêm khớp gối là một bệnh thoái hóa khớp phổ biến, đặc trưng bởi đau, giảm khả năng di chuyển và giảm chất lượng cuộc sống, đặc biệt là ở người cao tuổi. Bệnh này gây ra gánh nặng lớn đối với hệ thống y tế trên toàn thế giới do tỷ lệ mắc cao và tình trạng tàn tật liên quan. Vật lý trị liệu là một trụ cột trong quản lý bảo tồn cho viêm khớp gối, nhằm cải thiện chức năng khớp, giảm đau và chậm tiến triển của bệnh.
Vật lý trị liệu truyền thống một đối một, mặc dù hiệu quả, có thể hạn chế khả năng tiếp cận do hạn chế về nguồn lực và chi phí. Các chương trình vật lý trị liệu theo nhóm đã được đề xuất như một mô hình hiệu quả để tăng khả năng tiếp cận và giảm chi phí trong khi duy trì hiệu quả lâm sàng. Mặc dù có bằng chứng hỗ trợ hiệu quả của PT theo nhóm, việc triển khai rộng rãi các chương trình này vẫn còn hạn chế, và các chiến lược tối ưu cho việc triển khai lâm sàng chưa được xác định rõ. Hiểu rõ cách thúc đẩy việc áp dụng và duy trì PT theo nhóm trong các cơ sở y tế là rất quan trọng để giải quyết nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng của bệnh nhân bị viêm khớp gối.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên theo cụm này được thực hiện từ ngày 31 tháng 1 năm 2022 đến ngày 18 tháng 3 năm 2024, bao gồm 19 phòng khám vật lý trị liệu ngoại trú trong Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe của Bộ Cựu chiến binh (VA). Các địa điểm đồng ý triển khai một chương trình PT theo nhóm có cấu trúc nhắm mục tiêu đến bệnh nhân bị viêm khớp gối có triệu chứng.
Các địa điểm được ngẫu nhiên hóa thành hai nhóm triển khai:
1. Nhóm Hỗ trợ Cơ bản: Bao gồm việc phổ biến các công cụ triển khai tự hướng dẫn và các cuộc gọi hợp tác hàng tháng để hỗ trợ việc triển khai PT theo nhóm.
2. Nhóm Hỗ trợ Tăng cường: Ngoài hỗ trợ cơ bản, cung cấp sự hỗ trợ từ bên ngoài được tùy chỉnh cho các địa điểm hoạt động kém dựa trên các tiêu chuẩn đã định trước vào tháng 6 và tháng 9.
Can thiệp bao gồm việc triển khai sáu buổi PT theo nhóm trong 12 tháng, tích hợp cả nội dung tập luyện và giáo dục phù hợp cho việc quản lý viêm khớp gối.
Các kết quả triển khai chính được đo lường từ tháng 7 đến tháng 12 sau khi triển khai và bao gồm:
– Xâm nhập: Số trung bình bệnh nhân đăng ký mỗi tháng tại mỗi địa điểm (kết quả chính).
– Tuân thủ: Số trung bình lớp học mà mỗi bệnh nhân tham dự, phản ánh mức độ tuân thủ điều trị.
Mô hình tuyến tính tổng quát được sử dụng để so sánh các kết quả giữa các nhóm triển khai.
Kết quả chính
19 địa điểm (10 trong nhóm hỗ trợ tăng cường và 9 trong nhóm hỗ trợ cơ bản) đã triển khai PT theo nhóm cho tổng cộng 144 bệnh nhân (68 trong nhóm hỗ trợ tăng cường, 76 trong nhóm hỗ trợ cơ bản) trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 12. Phần lớn bệnh nhân là nam giới (90.3%) với độ tuổi trung bình là 67 tuổi.
– Xâm nhập:
– Nhóm hỗ trợ tăng cường: Số trung bình đăng ký là 1.0 bệnh nhân mỗi tháng (95% CI, 0.2-1.7).
– Nhóm hỗ trợ cơ bản: Số trung bình đăng ký là 1.0 bệnh nhân mỗi tháng (95% CI, 0.1-1.9).
– Sự khác biệt trung bình về xâm nhập giữa các nhóm là -0.1 (95% CI, -1.1 đến 1.0), không có ý nghĩa thống kê (P = .92).
– Tuân thủ:
– Nhóm hỗ trợ tăng cường: Bệnh nhân tham dự trung bình 5.0 trên 6 lớp (95% CI, 4.3-5.7).
– Nhóm hỗ trợ cơ bản: Bệnh nhân tham dự trung bình 4.1 lớp (95% CI, 3.2-4.9).
– Sự khác biệt về tuân thủ có lợi cho nhóm hỗ trợ tăng cường là 0.9 lớp mỗi bệnh nhân nhưng không đạt ý nghĩa thống kê (95% CI, 0.0-1.9; P = .06).
Những kết quả này cho thấy rằng mặc dù hỗ trợ tăng cường có thể cải thiện mức độ tuân thủ điều trị, nhưng nó không dẫn đến việc tăng tỷ lệ đăng ký bệnh nhân. Tổng thể, tỷ lệ giới thiệu và tiếp nhận bệnh nhân vẫn ở mức khiêm tốn, làm nổi bật thách thức liên tục trong việc tích hợp PT theo nhóm vào thực hành lâm sàng thường xuyên.
Bình luận chuyên gia
Nghiên cứu đã tận dụng thiết kế ngẫu nhiên theo cụm thực tế, tăng cường tính tổng quát hóa của các kết quả trong các hệ thống y tế lớn như VA. Việc sử dụng nhiều nhóm và các chiến lược hỗ trợ triển khai được định rõ cung cấp thông tin nghiêm ngặt về việc áp dụng chương trình lâm sàng.
Hạn chế bao gồm dân số chủ yếu là cựu chiến binh nam giới, có thể hạn chế việc áp dụng rộng rãi ra các môi trường cộng đồng. Ngoài ra, tỷ lệ đăng ký bệnh nhân khiêm tốn tại các địa điểm gợi ý các rào cản vượt quá hỗ trợ triển khai, như hành vi giới thiệu của bác sĩ, sở thích của bệnh nhân hoặc các ràng buộc ở cấp hệ thống, không được giải quyết đầy đủ.
Thử nghiệm này nhấn mạnh sự phức tạp của việc chuyển đổi các chương trình PT theo nhóm dựa trên bằng chứng vào thực hành tiêu chuẩn. Sự hỗ trợ từ bên ngoài, mặc dù có giá trị cho sự hỗ trợ tùy chỉnh, có thể không đủ nếu không có các chiến lược song song giải quyết các đường dẫn giới thiệu và sự tham gia của các bên liên quan.
Kết luận
Thử nghiệm ngẫu nhiên theo cụm đã chứng minh rằng hỗ trợ triển khai tăng cường, bao gồm sự hỗ trợ từ bên ngoài cá nhân, không cải thiện đáng kể tỷ lệ đăng ký bệnh nhân cho PT theo nhóm trong viêm khớp gối so với hỗ trợ cơ bản. Tuân thủ các buổi điều trị trung bình cao hơn với hỗ trợ tăng cường nhưng không đạt ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ xâm nhập khiêm tốn phản ánh những thách thức đang diễn ra trong việc thúc đẩy việc giới thiệu và tích hợp các chương trình lâm sàng mới. Nghiên cứu trong tương lai nên khám phá các chiến lược đa chiều kết hợp hỗ trợ triển khai với các can thiệp có mục tiêu giải quyết các quy trình giới thiệu, động lực của nhà cung cấp dịch vụ và sự tham gia của bệnh nhân.
Tổng thể, PT theo nhóm vẫn là một phương pháp hứa hẹn trong quản lý viêm khớp gối. Tối ưu hóa việc triển khai trong các cơ sở lâm sàng yêu cầu hiểu biết tinh vi về các yếu tố tổ chức và hành vi ảnh hưởng đến việc áp dụng và duy trì.
Tài liệu tham khảo
1. Allen KD, Webb S, Coffman CJ, Anderson L, Cummin G, Drake C, Tucker M, Webster A, Sperber N, Zullig LL, Hughes JM, Ballengee LA, Abbate LM, Hoenig H, Fullenkamp N, Van Houtven CH, Hastings SN. Triển khai Vật lý trị liệu theo nhóm cho Viêm khớp gối: Một Thử nghiệm Lâm sàng Ngẫu nhiên theo Cụm. JAMA Netw Open. 2025 Oct 1;8(10):e2535038. doi: 10.1001/jamanetworkopen.2025.35038. PMID: 41037266; PMCID: PMC12492051.
2. Bannuru RR, Osani MC, Vaysbrot EE, Arden NK, Bennell K, Bierma-Zeinstra SM, et al. Hướng dẫn của OARSI về quản lý không phẫu thuật Viêm khớp gối, hông và đa khớp. Osteoarthritis Cartilage. 2019 Nov;27(11):1578–89.
3. Goh SL, Persson MSM, Stocks J, Hou Y, Lin J, Hall MC, et al. Hiệu quả tương đối của các loại tập luyện khác nhau trong điều trị Viêm khớp gối và hông: Một đánh giá hệ thống và phân tích mạng lưới meta. Sports Med. 2019 Nov;49(12):1679–92.
4. Duda JL. Triển khai các can thiệp hoạt động thể chất trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe: Rào cản, yếu tố thuận lợi và chiến lược. J Sport Health Sci. 2020 Jul;9(4):295–7.