Bảo tồn điều trị rối loạn sử dụng opioid trong thai kỳ: So sánh mô hình ngừng điều trị giữa buprenorphine và methadone

Bảo tồn điều trị rối loạn sử dụng opioid trong thai kỳ: So sánh mô hình ngừng điều trị giữa buprenorphine và methadone

Nổi bật

  • Người bắt đầu dùng buprenorphine trong thai kỳ sớm có tỷ lệ ngừng điều trị đáng kể cao hơn so với những người bắt đầu dùng methadone.
  • Tỷ lệ ngừng điều trị vẫn cao cho cả buprenorphine và methadone qua một năm sau sinh.
  • Nguy cơ ngừng điều trị đáng chú ý hơn với sự kết hợp buprenorphine/naloxone so với buprenorphine đơn thuần.
  • Kết quả nhấn mạnh nhu cầu cấp bách để xác định các rào cản đối với việc bảo tồn điều trị trong số bệnh nhân mang thai mắc rối loạn sử dụng opioid.

Nền tảng nghiên cứu

Rối loạn sử dụng opioid (OUD) trong thai kỳ đặt ra những thách thức quan trọng do các nguy cơ liên quan đến cả mẹ và trẻ sơ sinh, bao gồm các triệu chứng cai nghiện, tái phát và các kết quả sản khoa không thuận lợi. Chăm sóc tiêu chuẩn bao gồm các liệu pháp kích thích opioid, chủ yếu là methadone và buprenorphine, để ổn định mức độ opioid của mẹ, giảm việc sử dụng opioid bất hợp pháp và cải thiện kết quả thai kỳ. Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng bên ngoài thai kỳ thường cho thấy tỷ lệ ngừng điều trị cao hơn với buprenorphine, dữ liệu so sánh trong thai kỳ và sau sinh còn hạn chế. Nghiên cứu này giải quyết khoảng trống này bằng cách đánh giá việc ngừng điều trị thực tế trong một nhóm lớn Medicaid quốc gia của bệnh nhân mang thai bắt đầu các liệu pháp này trong tam cá nguyệt đầu tiên.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu trên quy mô toàn quốc phân tích dữ liệu yêu cầu Medicaid để xác định bệnh nhân mang thai bắt đầu methadone hoặc buprenorphine qua niêm mạc (có hoặc không có naloxone) cho OUD trong tam cá nguyệt đầu tiên. Nhóm bao gồm 696 người bắt đầu dùng methadone và 1,538 người bắt đầu dùng buprenorphine. Điểm cuối chính là việc ngừng điều trị, được xác định là khoảng cách điều trị 60 ngày hoặc hơn. Các phân tích nhạy cảm đánh giá các định nghĩa ngừng điều trị thay thế. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hồi quy Cox với trọng số chồng chéo điểm khuynh hướng để điều chỉnh các biến số gây nhiễu. Phân tích nhóm con tiếp tục phân loại kết quả theo buprenorphine đơn thuần so với sự kết hợp buprenorphine/naloxone so với methadone.

Kết quả chính

Nghiên cứu đã phát hiện rằng những người bắt đầu dùng buprenorphine có khả năng ngừng điều trị đáng kể cao hơn trong thai kỳ (32.8%) so với những người bắt đầu dùng methadone (25.6%), với tỷ lệ nguy cơ điều chỉnh (HR) là 1.41 (khoảng tin cậy 95% [CI], 1.15 đến 1.72). Trong suốt thời gian theo dõi qua một năm sau sinh, việc ngừng điều trị cũng cao hơn đối với buprenorphine so với methadone (58.8% so với 49.0%; HR 1.37, 95% CI 1.19 đến 1.57).

Các phân tích nhóm con chi tiết hơn cho thấy những bệnh nhân bắt đầu dùng sự kết hợp buprenorphine/naloxone có nguy cơ ngừng điều trị cao hơn đáng kể trong thai kỳ (HR 1.73, 95% CI 1.36 đến 2.19) và sau sinh (HR 1.56, 95% CI 1.30 đến 1.86), trong khi những người bắt đầu dùng buprenorphine đơn thuần có tỷ lệ nguy cơ gần bằng không trong thai kỳ (HR 1.14, 95% CI 0.90 đến 1.46) nhưng hơi cao hơn sau sinh (HR 1.23, 95% CI 1.04 đến 1.46).

Các phân tích nhạy cảm thay đổi ngưỡng khoảng cách điều trị nhất quán hỗ trợ các kết quả này, củng cố tính robust của các sự khác biệt quan sát được.

Bình luận chuyên gia

Nghiên cứu này quan trọng xác nhận trong một nhóm lớn, thực tế tại Hoa Kỳ rằng bệnh nhân mang thai được điều trị bằng buprenorphine qua niêm mạc có tỷ lệ ngừng điều trị sớm cao hơn so với những người dùng methadone. Sự tăng cao đặc biệt của việc ngừng điều trị với dạng kết hợp buprenorphine/naloxone đặt ra câu hỏi về sự tuân thủ của bệnh nhân, hồ sơ tác dụng phụ và các rào cản tiềm ẩn như kỳ thị hoặc thách thức tiếp cận trong thai kỳ. Việc ngừng điều trị OUD trong thai kỳ liên quan đến nguy cơ tăng tái phát ở mẹ và kết quả không thuận lợi ở trẻ sơ sinh, các kết quả này nhấn mạnh nhu cầu cần có các chiến lược lâm sàng và dịch vụ hỗ trợ phù hợp với dân số mang thai.

Hạn chế bao gồm việc dựa vào dữ liệu yêu cầu Medicaid có thể không phản ánh sự tuân thủ thuốc hoặc tất cả các biến số lâm sàng. Ngoài ra, thiết kế quan sát không loại trừ mối quan hệ nhân quả. Dù đã điều chỉnh cho các biến số gây nhiễu, vẫn có thể còn sót lại sự thiên lệch. Tuy nhiên, dữ liệu này bổ sung cho các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên bằng cách phản ánh kinh nghiệm lâm sàng hàng ngày trên một dân số đa dạng, trên quy mô toàn quốc.

Kết luận

Tóm lại, nghiên cứu này trên quy mô toàn quốc nhấn mạnh rằng mặc dù việc bảo tồn điều trị bằng liệu pháp kích thích opioid trong thai kỳ và sau sinh nói chung là thách thức, buprenorphine (đặc biệt là sự kết hợp với naloxone) liên quan đến tỷ lệ ngừng điều trị đáng kể cao hơn so với methadone. Các kết quả này làm nổi bật nhu cầu cấp bách để xác định và vượt qua các rào cản đối với việc duy trì điều trị OUD trong số bệnh nhân mang thai. Tối ưu hóa việc bảo tồn trong liệu pháp kích thích opioid vẫn là yếu tố thiết yếu để cải thiện kết quả cho mẹ và trẻ sơ sinh trong dân số dễ bị tổn thương này.

Quỹ tài trợ và ClinicalTrials.gov

Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi các khoản tài trợ nghiên cứu như được công nhận trong bài báo đã xuất bản. Không có đăng ký thử nghiệm lâm sàng nào được áp dụng do thiết kế nhóm hồi cứu.

Tài liệu tham khảo

Grace Lin CW, Bateman BT, Straub L, Hernández-Díaz S, Vine SM, Jones HE, Connery HS, Davis JM, Gray KJ, Lester B, Suarez EA, Sujan AC, Terplan M, Huybrechts KF. Ngừng điều trị buprenorphine và methadone trong thai kỳ và giai đoạn sau sinh: Một nghiên cứu nhóm toàn quốc. Am J Psychiatry. 2025 Aug 27:appiajp20241127. doi: 10.1176/appi.ajp.20241127. Epub ahead of print. PMID: 40859701; PMCID: PMC12573272.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *