Nhấn mạnh
- Một chẩn đoán ung thư liên quan đến sự gia tăng nhẹ nhưng kéo dài trong nợ y tế bị thu hồi, kéo dài đến sáu năm sau chẩn đoán.
- Bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng và bàng quang trải qua sự gia tăng đáng kể và kéo dài trong tổng nợ bị thu hồi.
- Mặc dù nợ y tế tăng lên, tổng nợ, tỷ lệ phá sản và điểm tín dụng không thay đổi đáng kể sau chẩn đoán trong nhóm quần thể nói chung.
- Tỷ lệ bảo hiểm cao ở Massachusetts không hoàn toàn giảm bớt gánh nặng tài chính của ung thư.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Ung thư ảnh hưởng đến gần 40% cá nhân ở Hoa Kỳ trong suốt cuộc đời và gây ra áp lực tài chính đáng kể do chi phí tự trả cao, chi phí phi y tế và mất thu nhập. Sự độc hại tài chính này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tuân thủ điều trị, chất lượng cuộc sống và kết quả tổng thể. Mặc dù các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận sự gia tăng chi phí tự trả sau khi chẩn đoán ung thư, nhưng các đánh giá toàn diện về các chỉ số sức khỏe tài chính khách quan như nợ y tế bị thu hồi, phá sản và điểm tín dụng đã bị hạn chế. Hiểu rõ hậu quả tài chính dài hạn của ung thư là quan trọng để thông báo cho chính sách và các chương trình hỗ trợ tài chính mục tiêu, đặc biệt là trong bối cảnh khả năng gặp phải khó khăn kinh tế kéo dài ngay cả ở các bang có tỷ lệ bảo hiểm cao như Massachusetts. Bối cảnh này đã thúc đẩy một cuộc điều tra dựa trên quần thể chi tiết về sự phát triển của nợ y tế và phi y tế sau khi chẩn đoán ung thư.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu quần thể dựa trên dữ liệu hồi cứu được tiến hành ở Massachusetts. Các nhà nghiên cứu đã xác định 74.146 bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu với một trong chín loại ung thư phổ biến—bàng quang, vú, cổ tử cung, đại trực tràng, gan, phổi, buồng trứng, tuyến giáp và tử cung—trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2019. Mỗi bệnh nhân ung thư được ghép 1:1 với một cá nhân không mắc ung thư dựa trên các yếu tố cơ sở nhân khẩu học và kinh tế xã hội (tuổi trung bình 57,2 tuổi, 81,2% nữ) để kiểm soát các yếu tố nhiễu.
Nghiên cứu đã tận dụng các bộ dữ liệu tài chính toàn diện được liên kết theo chuỗi tại các khoảng cách 6 tháng để đánh giá kết quả từ chẩn đoán đến 8,5 năm. Kết quả chính bao gồm sự thay đổi theo thời gian (thiết kế hiệu ứng khác biệt) trong:
– Tổng nợ (tổng số tất cả các khoản vay trả góp mở)
– Tổng nợ bị thu hồi
– Nợ y tế bị thu hồi
– Điểm tín dụng (VantageScore từ 300–850)
– Tỷ lệ phá sản
Những biện pháp này cho phép đánh giá khách quan về gánh nặng nợ và sức khỏe tín dụng. Ung thư vú là chẩn đoán phổ biến nhất (38,6%), tiếp theo là ung thư phổi (18,6%) và ung thư đại trực tràng (14%).
Kết quả chính
Phân tích đã tiết lộ các mô hình cụ thể theo loại ung thư trong nợ y tế và gánh nặng nợ tổng thể:
– Trong nhóm ung thư tổng thể, nợ y tế bị thu hồi tăng nhẹ 15,45 đô la tại 6 năm sau chẩn đoán so với nhóm đối chứng được ghép. Trong số các bệnh nhân có bất kỳ nợ y tế nào bị thu hồi sau chẩn đoán, sự tăng lên đáng kể hơn, đạt 160,01 đô la.
– Tổng nợ, tổng nợ bị thu hồi, tỷ lệ phá sản và điểm tín dụng không có sự khác biệt đáng kể giữa bệnh nhân ung thư và đối chứng trong nhóm tổng thể.
Kết quả cụ thể theo loại ung thư bao gồm:
– Bệnh nhân ung thư đại trực tràng trải qua sự tăng trung bình 155,55 đô la trong tổng nợ bị thu hồi tại 6 năm sau chẩn đoán.
– Bệnh nhân ung thư bàng quang thấy sự tăng lớn hơn 375,77 đô la trong tổng nợ bị thu hồi tại 5,5 năm sau chẩn đoán.
– Sự tăng nợ y tế bị thu hồi thay đổi theo loại ung thư và thời gian sau chẩn đoán:
– Ung thư vú: Tăng 11,02 đô la trong vòng 4 năm sau chẩn đoán
– Ung thư cổ tử cung: Tăng 33,91 đô la trong vòng 1 năm
– Ung thư đại trực tràng: Tăng 38,99 đô la trong vòng 6 năm
– Ung thư phổi: Tăng 26,68 đô la trong vòng 5,5 năm
– Ung thư tử cung: Tăng 9,77 đô la trong vòng 1 năm
– Đáng chú ý, bệnh nhân ung thư gan cho thấy sự giảm đáng kể về tổng nợ khoảng 12.608 đô la tại 8,5 năm, có thể phản ánh các mô hình sống sót và kinh tế khác biệt.
– Không có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ phá sản, cho thấy rằng mặc dù nợ y tế tăng lên, nó không chuyển thành tỷ lệ phá sản cao hơn trong nhóm có bảo hiểm.
Những kết quả này cho thấy rằng mặc dù sự tăng nhẹ trong nợ y tế là phổ biến sau khi chẩn đoán ung thư, tác động tài chính là khác nhau theo loại ung thư, với ung thư đại trực tràng và bàng quang liên quan đến gánh nặng nợ lớn hơn và kéo dài hơn.
Bình luận chuyên gia
Nghiên cứu quần thể lớn, được ghép này cung cấp cái nhìn khách quan quan trọng về hậu quả tài chính của chẩn đoán ung thư trong một bang có tỷ lệ bảo hiểm cao. Kết quả cho thấy rằng ngay cả bệnh nhân có bảo hiểm cũng tích lũy nợ y tế nhẹ nhưng kéo dài có thể kéo dài nhiều năm. Đáng chú ý, việc không có sự thay đổi đáng kể về tổng nợ, điểm tín dụng hoặc tỷ lệ phá sản cho thấy bệnh nhân có thể quản lý một số rủi ro tài chính hoặc chậm trễ sự gia tăng nợ mặc dù nợ y tế bị thu hồi tăng lên.
Gánh nặng nợ đáng kể ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng và bàng quang có thể liên quan đến sự phức tạp của điều trị, thời gian sống sót lâu hơn hoặc mức đồng thanh toán cao hơn. Sự giảm nợ ở bệnh nhân sống sót ung thư gan xứng đáng được nghiên cứu thêm nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi các bệnh tiến triển nhanh và tử vong cao.
Hạn chế bao gồm khả năng thiếu tính đại diện ngoài Massachusetts, nhiễu còn lại và thiếu dữ liệu chi tiết về điều trị hoặc thu nhập. Ngoài ra, sự tăng nhẹ tương đối trong nợ có thể không đại diện cho sự khó khăn tài chính ở các nhóm dễ bị tổn thương hơn không có bảo hiểm hoặc mắc bệnh nghiêm trọng.
Tổng thể, những kết quả này nhấn mạnh nhu cầu cần có tư vấn tài chính tích hợp và các chương trình hỗ trợ tài chính sớm trong quá trình chăm sóc ung thư. Chúng nhấn mạnh tầm quan trọng của các sáng kiến chính sách nhằm giảm gánh nặng tự trả và mở rộng mạng lưới an toàn để ngăn ngừa nợ y tế mãn tính, điều này đã được liên kết với việc giảm tiếp cận chăm sóc và kết quả sức khỏe xấu.
Kết luận
Chẩn đoán ung thư ở Massachusetts liên quan đến sự gia tăng kéo dài trong nợ y tế bị thu hồi, đặc biệt là ở các bệnh nhân ung thư đại trực tràng và bàng quang, mặc dù có tỷ lệ bảo hiểm rộng rãi. Việc không có sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ phá sản và điểm tín dụng cho thấy bệnh nhân có thể giảm thiểu hậu quả tài chính cực đoan nhưng vẫn dễ bị tổn thương do tích lũy nợ kéo dài.
Những kết quả này nhấn mạnh nhu cầu cấp bách phải giải quyết độc hại tài chính thông qua hỗ trợ tài chính phòng ngừa, minh bạch về chi phí và các chính sách hỗ trợ được điều chỉnh cho các nhóm bệnh nhân ung thư có nguy cơ cao nhất. Nghiên cứu trong tương lai nên khám phá các cơ chế đứng sau các mô hình nợ cụ thể theo loại ung thư và đánh giá các can thiệp để giảm nhẹ khó khăn tài chính dài hạn và cải thiện công bằng sức khỏe.
Tài liệu tham khảo
Uppal N, Gomez-Mayorga JL, O’Donoghue AL, Fleishman A, Bogdanovski AK, Roth EM, Broekhuis JM, Hu-Bianco QL, Esselen KM, James BC. Debt, Bankruptcy, and Credit Scores After Cancer Diagnosis. JAMA Oncol. 2025 Aug 28:e253302. doi:10.1001/jamaoncol.2025.3302. PMID: 40875239; PMCID: PMC12395357.
Văn献附加参考:
– Ramsey SD, Bansal A, Fedorenko CR, et al. Financial Insolvency as a Risk Factor for Early Mortality Among Patients With Cancer. J Clin Oncol. 2016;34(9):980-986.
– Bernard DS, Farr SL, Fang Z, et al. Medical Debt and Its Impact on Health and Healthcare Utilization. J Gen Intern Med. 2023;38(2):350-357.
– Warren JL, Yabroff KR, Meekins A, et al. Evaluation of Trends in Total and Out-of-Pocket Costs Among US Patients With Cancer by Insurance Type, 2008 to 2018. JAMA Netw Open. 2021;4(4):e214035.