Điều trị Everolimus và Tacrolimus liều thấp sau cấy ghép tim ở trẻ em: Những hiểu biết từ một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm

Điều trị Everolimus và Tacrolimus liều thấp sau cấy ghép tim ở trẻ em: Những hiểu biết từ một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm

Nổi bật

Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên này đã đánh giá sự kết hợp giữa everolimus và tacrolimus liều thấp so với tacrolimus liều tiêu chuẩn và mycophenolate mofetil ở bệnh nhân cấy ghép tim trẻ em bắt đầu từ 6 tháng sau cấy ghép. Kết quả chính bao gồm không có sự khác biệt đáng kể về điểm kết hợp chính gồm từ chối tế bào cấp tính, bệnh mạch máu cấy ghép tim (CAV) và bệnh thận mãn tính (CKD) tại 30 tháng. Đặc biệt, việc sử dụng everolimus được liên quan đến chức năng thận cải thiện và nguy cơ nhiễm cytomegalovirus (CMV) giảm, mà không tăng nguy cơ an toàn.

Nền tảng nghiên cứu

Cấy ghép tim ở trẻ em vẫn gặp thách thức do thời gian sống trung bình của ghép, khoảng 15 năm, và nguy cơ đáng kể của từ chối, bệnh mạch máu cấy ghép tim (CAV), bệnh thận mãn tính (CKD) và các bệnh nhiễm như cytomegalovirus (CMV). Everolimus, một chất ức chế mammalian target of rapamycin (mTOR), đã được cho thấy giảm tỷ lệ từ chối và CAV và cải thiện kết quả thận ở bệnh nhân cấy ghép người lớn. Tuy nhiên, việc bắt đầu sử dụng everolimus ngay sau cấy ghép đã được liên kết với tỷ lệ tử vong do nhiễm cao hơn trong một số nghiên cứu, gây lo ngại về độ an toàn khi sử dụng de novo ở bệnh nhân cấy ghép trẻ em. Vì vậy, việc sử dụng everolimus bắt đầu muộn hơn—như 6 tháng sau cấy ghép—có lợi và an toàn cho trẻ em hay không vẫn chưa rõ ràng, đặc biệt là do thiếu các thử nghiệm ngẫu nhiên kiểm soát trong dân số này.

Thiết kế nghiên cứu

Đây là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mở, đa trung tâm được thực hiện tại 25 địa điểm ở Hoa Kỳ từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 8 năm 2020, tuyển chọn 211 bệnh nhân cấy ghép tim trẻ em còn sống sau 6 tháng cấy ghép. Người tham gia được ngẫu nhiên hóa để nhận hoặc everolimus kết hợp với tacrolimus liều thấp (n=107) hoặc chế độ điều trị tiêu chuẩn gồm tacrolimus liều tiêu chuẩn và mycophenolate mofetil (n=104) trong thời gian theo dõi 30 tháng. Điểm kết hợp hiệu quả chính là điểm MATE-3 tại 30 tháng, một thước đo thứ tự tổng hợp bao gồm từ chối tế bào cấp tính, CAV và CKD. Điểm kết hợp an toàn chính là điểm MATE-6, mở rộng điểm MATE-3 bằng cách bao gồm từ chối do kháng thể, nhiễm trùng và rối loạn lymphoproliferative sau cấy ghép (PTLD). Các điểm kết hợp phụ thêm bao gồm sự sống còn của ghép, tự do khỏi các sự kiện MATE riêng biệt, chức năng thận được đo bằng tốc độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) và tỷ lệ mắc bệnh CMV.

Kết quả chính

Độ tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 8,2 tuổi, với 46% được cấy ghép do bệnh tim bẩm sinh và 23% đã có các đợt từ chối trước 6 tháng. Tại 30 tháng, không có sự khác biệt thống kê đáng kể về điểm MATE-3 trung bình giữa nhóm everolimus-tacrolimus liều thấp và nhóm ức chế miễn dịch tiêu chuẩn (hiệu ứng trung bình -0,32; KTC 95%, -0,90 đến 0,20; P=0,16), cho thấy hiệu quả tương đương về từ chối tế bào cấp tính, CAV và CKD. Về độ an toàn, điểm MATE-6 trung bình thấp hơn nhẹ ở nhóm everolimus nhưng không thua kém thống kê (hiệu ứng trung bình điều chỉnh theo cơ sở -0,40; KTC 95%, -1,81 đến 0,93), hỗ trợ các hồ sơ độ an toàn tương đương.

Không có sự khác biệt đáng kể về sự sống còn của ghép hoặc sự sống còn không có MATE. Quan trọng, chức năng thận cải thiện nhiều hơn ở nhóm everolimus, với mức tăng eGFR trung bình tại 12 tháng là 10,5 mL/phút/1,73 m² (KTC 95%, 1,09 đến 19,91), chỉ ra một hiệu ứng bảo vệ thận có ý nghĩa. Hơn nữa, trẻ em được điều trị bằng everolimus có nguy cơ mắc bệnh CMV giảm đáng kể (tỷ lệ nguy cơ 0,50; KTC 95%, 0,26-0,93), đề xuất một chế độ ức chế miễn dịch có thể mang lại lợi ích bảo vệ virus. Không có sự khác biệt đáng kể về từ chối do kháng thể, tỷ lệ nhiễm trùng ngoài CMV, hoặc tỷ lệ mắc PTLD, giảm bớt lo ngại từ dữ liệu trước đây về tỷ lệ tử vong do nhiễm cao hơn với việc bắt đầu sử dụng everolimus sớm.

Bình luận chuyên gia

Thử nghiệm này giải quyết những khoảng trống kiến thức quan trọng về tối ưu hóa ức chế miễn dịch ở bệnh nhân cấy ghép tim trẻ em—một dân số dễ bị tổn thương với những thách thức sinh học và lâm sàng riêng biệt. Chiến lược hoãn việc bắt đầu sử dụng everolimus cho đến 6 tháng sau cấy ghép có vẻ cân bằng giữa các lợi ích tiềm năng của ức chế mTOR—như giảm thiểu CAV và độc tính thận từ các chất ức chế calcineurin—trong khi tránh nguy cơ nhiễm cao hơn được quan sát thấy với việc sử dụng sớm sau cấy ghép. Lợi ích thận phù hợp với các tác dụng phụ đã biết của các chế độ ức chế miễn dịch tiêu chuẩn, nơi độc tính thận từ các chất ức chế calcineurin là yếu tố đóng góp chính vào CKD tiến triển.

Mặc dù điểm kết hợp hiệu quả chính tổng hợp không cho thấy sự vượt trội cho everolimus, việc cải thiện chức năng thận và giảm tỷ lệ CMV cung cấp những lợi thế lâm sàng có ý nghĩa có thể chuyển đổi thành kết quả lâu dài tốt hơn, xem xét gánh nặng cao của CKD và bệnh lý liên quan đến CMV trong dân số này. Hạn chế bao gồm thiết kế mở và thời gian theo dõi ngắn 30 tháng, có thể không bắt được sự xuất hiện muộn của CAV hoặc PTLD. Sự đa dạng của các chỉ định cấy ghép tim trẻ em và lịch sử từ chối trước đó cũng phản ánh sự đa dạng của thực tế lâm sàng nhưng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sự kiện. Cần theo dõi lâu dài hơn và các nghiên cứu cơ chế để xác nhận tính bền vững của lợi ích thận và tác dụng chống virus.

Kết luận

Trong số những bệnh nhân cấy ghép tim trẻ em sống sót sau 6 tháng, ức chế miễn dịch bằng everolimus cộng với tacrolimus liều thấp đã chứng minh độ an toàn không thua kém so với tacrolimus tiêu chuẩn và mycophenolate và đạt được hiệu quả tương đương trong việc ngăn ngừa từ chối tế bào, CAV và CKD tại 30 tháng. Đáng chú ý, chế độ ức chế miễn dịch everolimus được liên quan đến chức năng thận cải thiện và tỷ lệ mắc bệnh CMV giảm đáng kể. Những phát hiện này hỗ trợ việc giới thiệu muộn everolimus như một chiến lược ức chế miễn dịch khả thi ở trẻ em sau cấy ghép tim, mang lại tiềm năng để cải thiện kết quả lâu dài của ghép và bệnh nhân mà không làm tăng nguy cơ sự cố bất lợi tổng thể.

Cần thêm các nghiên cứu lâm sàng để xác định lợi ích lâu dài, thời điểm tối ưu và lựa chọn bệnh nhân cho việc sử dụng everolimus, tích hợp những phát hiện này vào các giao thức ức chế miễn dịch cá nhân hóa.

Tài trợ và Đăng ký Thử nghiệm Lâm sàng

Nghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ trợ từ các tổ chức học thuật và cộng tác viên tại 25 trung tâm ở Hoa Kỳ. Thử nghiệm lâm sàng đã được đăng ký dưới số hiệu ClinicalTrials.gov: NCT03386539.

Tài liệu tham khảo

Almond CS, Daly KP, Albers EL, et al. Everolimus and Low-Dose Tacrolimus After Heart Transplant in Children: A Randomized Clinical Trial. JAMA. 2025;334(15):1339-1348. doi:10.1001/jama.2025.14338.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *