Hóa xạ trị nâng cao sự sống còn lâu dài trong ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao

Hóa xạ trị nâng cao sự sống còn lâu dài trong ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao

Tổng quan

– Hóa xạ trị bổ trợ cải thiện sự sống còn tổng thể sau 10 năm (74,4% so với 67,3%) và sự sống còn không tái phát trong ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao.
– Bệnh nhân có u p53 bất thường nhận được lợi ích sống còn lớn nhất từ hóa xạ trị.
– Không có lợi ích sống còn đáng kể nào được quan sát đối với bệnh nhân có u đột biến POLE hoặc thiếu sửa chữa ghép đôi (MMRd) khi thêm hóa trị.
– Phân loại phân tử là quan trọng trong việc điều chỉnh điều trị do lợi ích hóa trị khác nhau và cân nhắc về độc tính.

Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh

Ung thư nội mạc tử cung là bệnh ác tính phụ khoa phổ biến nhất ở các nước phát triển, với tỷ lệ mắc ngày càng tăng liên quan đến dân số già đi và béo phì. Thông thường, bệnh này có kết quả thuận lợi, nhưng khoảng 15-20% bệnh nhân mắc bệnh nguy cơ cao được đặc trưng bởi các đặc điểm mô học hung hiểm như tế bào niệu, tế bào trong suốt, u cấp độ cao xâm lấn sâu vào thành tử cung, hoặc xâm lấn không gian mạch bạch huyết (LVSI). Những bệnh nhân này có nguy cơ tái phát và tử vong đáng kể. Chiến lược điều trị bổ trợ tối ưu cho ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao vẫn là thách thức lâm sàng, với sự chuyển dịch gần đây hướng tới tiếp cận đa phương thức. Thử nghiệm PORTEC-3 cung cấp dữ liệu quan trọng dài hạn giải quyết vấn đề liệu hóa xạ trị kết hợp có cải thiện kết quả sống còn so với xạ trị vùng chậu đơn thuần hay không, cùng những hiểu biết về tiểu loại phân tử khối u có thể hướng dẫn điều trị cá nhân hóa.

Thiết kế nghiên cứu

Thử nghiệm PORTEC-3 là một nghiên cứu giai đoạn 3 mở nhãn, nhiều trung tâm, ngẫu nhiên bao gồm 660 phụ nữ mắc ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao được định nghĩa là giai đoạn I, cấp độ 3 với xâm lấn sâu vào thành tử cung và/hoặc xâm lấn không gian mạch bạch huyết; giai đoạn II-III; hoặc giai đoạn I-III với tế bào niệu hoặc tế bào trong suốt. Người tham gia được ngẫu nhiên hóa để nhận xạ trị vùng chậu đơn thuần hoặc hóa xạ trị kết hợp, bao gồm xạ trị vùng chậu cộng thêm hai chu kỳ cisplatin trong quá trình xạ trị, sau đó là bốn chu kỳ hóa trị carboplatin và paclitaxel. Các điểm cuối chính cho phân tích dài hạn cập nhật này là sự sống còn tổng thể và không tái phát sau 10 năm. Phân loại phân tử khối u được thực hiện hồi cứu trên 411 (62%) mẫu khối u, phân loại chúng chủ yếu dựa trên trạng thái p53, đột biến POLE, thiếu sửa chữa ghép đôi (MMRd) và biểu hiện thụ thể hormon.

Kết quả chính

Với thời gian theo dõi trung bình 10 năm, đã báo cáo 189 ca tử vong, 77% do ung thư nội mạc tử cung. Nhóm hóa xạ trị đã chứng minh sự cải thiện đáng kể về kết quả so với xạ trị đơn thuần. Cụ thể, sự sống còn tổng thể sau 10 năm là 74,4% so với 67,3% (tỷ lệ nguy cơ điều chỉnh [aHR] 0,73; P = .032), và sự sống còn không tái phát sau 10 năm là 72,8% so với 67,4% (aHR 0,74; P = .034). Hầu hết các trường hợp tái phát xảy ra trong 2,5 năm đầu sau điều trị và chủ yếu là xa, phản ánh kiểm soát cục bộ và hạch tốt ở cả hai nhóm.

Figure 1 Kaplan–Meier survival curves for overall survival (A) and recurrence-free survival (B) in all patients by treatment group and for overall survival (C) and recurrence-free survival (D) by molecular group
Patients (n) Overall survival Recurrence-free survival
HR (95% CI)* p value HR (95% CI)* p value
Treatment group
Radiotherapy 201 1 (ref) . . .
Chemoradiotherapy 210 0·72 (0·50–1·04) 0·079 0·64 (0·45–0·91) 0·013
Age
<60 years 178 1 (ref) . . .
60–69 years 169 2·31 (1·43–3·74) <0·0001 1·54 (1·01–2·35) 0·045
≥70 years 64 2·78 (1·54–5·00) <0·0001 1·69 (0·99–2·90) 0·055
Stage
I–II 233 1 (ref) . . .
III 178 2·45 (1·64–3·65) <0·0001 2·52 (1·71–3·72) <0·0001
Histology and grade
Endometroid grade 1–2 161 1 (ref) . . .
Endometroid grade 3 132 1·44 (0·84–2·46) 0·19 1·05 (0·63–1·76) 0·84
Serous or clear cell 118 1·10 (0·60–2·02) 0·76 0·95 (0·53–1·71) 0·87
Lymphovascular space invasion (any)
Absent 155 1 (ref) . . .
Present 256 1·47 (1·01–2·36) 0·071 1·55 (1·05–2·30) 0·029
Molecular class
MMRd 139 1 (ref)
POLEmut 51 0·070 (0·010–0·54) 0·0090 0·072 (0·01–0·53) 0·0090
P53abn 99 2·29 (1·46–3·99) <0·0001 2·83 (1·71–4·68) <0·0001
NSMP 122 0·69 (0·39–1·16) 0·16 1·12 (0·70–1·80) 0·63
Table 2

Multivariable analysis of prognostic factors for overall survival and recurrence-free survival
Analyses by molecular group were added post-hoc. HR=hazard ratio. MMRd=mismatch repair-deficient. NSMP=no specific molecular profile. p53abn=p53 abnormal. POLEmut=POLE mutation.

Trong phân tích tiểu nhóm phân tử, khoảng 25% bệnh nhân có u p53 bất thường, được biết đến là dự đoán tiên lượng không thuận lợi. Những bệnh nhân này nhận được lợi ích lớn nhất từ hóa xạ trị, với sự sống còn tổng thể sau 10 năm cải thiện từ 36,6% với xạ trị đơn thuần lên 52,7% khi kết hợp với hóa trị (aHR 0,52; P = .021). Ngược lại, bệnh nhân có đột biến POLE bệnh lý có sự sống còn xuất sắc vượt quá 96% với xạ trị đơn thuần, không có lợi ích bổ sung từ hóa trị. Tương tự, không có lợi ích sống còn nào được quan sát trong u thiếu sửa chữa ghép đôi khi thêm hóa trị.

Đối với các khối u không có hồ sơ phân tử cụ thể, kết quả là hỗn hợp. Trong các khối u dương tính với thụ thể estrogen, không có lợi ích sống còn rõ ràng từ hóa xạ trị (81,8% so với 82,3%). Các khối u âm tính với thụ thể estrogen dường như có lợi, nhưng kết quả này bị hạn chế bởi kích thước mẫu nhỏ và cần giải thích thận trọng.

Bình luận chuyên gia

Kết quả dài hạn của PORTEC-3 củng cố bằng chứng trước đây hỗ trợ việc tích hợp hóa trị với xạ trị vùng chậu để cải thiện sự sống còn trong ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao. Đáng chú ý, lợi ích chủ yếu tập trung vào các khối u có p53 bất thường, phù hợp với hiểu biết phân tử rằng những khối u này thể hiện sinh học hung hiểm và nhạy cảm hơn với hóa trị toàn thân. Kết quả này nhấn mạnh yêu cầu lâm sàng cần thiết phải phân loại phân tử khối u nội mạc tử cung một cách thường xuyên để tối ưu hóa việc lựa chọn điều trị bổ trợ.

Tuy nhiên, tác động khác nhau qua các tiểu nhóm phân tử nhấn mạnh rằng hóa trị có thể không cần thiết và có thể gây hại ở một số bệnh nhân, chẳng hạn như những người có đột biến POLE hoặc thiếu sửa chữa ghép đôi, những người có tiên lượng thuận lợi hoặc trung bình khi được điều trị hiệu quả bằng xạ trị đơn thuần. Nghiên cứu cũng minh họa cho việc định nghĩa động của bệnh nguy cơ cao, phản ánh sự tích hợp động của phân loại phân tử trong phân tầng rủi ro.

Hạn chế bao gồm phân tích tiểu nhóm phân tử không đủ sức mạnh do kích thước mẫu giới hạn và không đạt được ngưỡng sự kiện sống còn được xác định trước, có thể ảnh hưởng đến độ tin cậy thống kê. Ngoài ra, thiết kế mở nhãn có thể đưa ra thiên lệch tiềm ẩn, mặc dù các điểm cuối như sự sống còn ít bị ảnh hưởng.

Các hướng dẫn ngày càng tích hợp dữ liệu phân tử cho các quyết định điều trị. Kết quả của PORTEC-3 cung cấp bằng chứng lâm sàng cụ thể hỗ trợ hóa xạ trị cho ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao có p53 bất thường, củng cố đồng thuận chuyên gia hiện tại đồng thời nhấn mạnh các khu vực cho cách tiếp cận điều trị cá nhân hóa.

Kết luận

Các kết quả cập nhật sau 10 năm từ thử nghiệm PORTEC-3 xác nhận rằng hóa xạ trị bổ trợ đáng kể cải thiện sự sống còn tổng thể và không tái phát lâu dài trong phụ nữ mắc ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao, với lợi ích lớn nhất được quan sát ở bệnh nhân có u p53 bất thường. Dữ liệu hỗ trợ phân loại phân tử thường xuyên để hướng dẫn cường độ điều trị, có thể tiết kiệm các tiểu loại phân tử nguy cơ thấp khỏi độc tính bổ sung của hóa trị mà không làm giảm kết quả. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc hoàn thiện phân tầng rủi ro, giảm thiểu tổn thương do điều trị, và khám phá các tác nhân hệ thống mới phù hợp với hồ sơ phân tử để cải thiện thêm sự sống còn và chất lượng cuộc sống trong nhóm bệnh nhân này.

Tham khảo

Post CCB, de Boer SM, Powell ME, Mileshkin L, Katsaros D, Bessette P, Leary A, Ottevanger PB, McCormack M, Khaw P, D’Amico R, Fyles A, Chargari C, Kitchener HC, Do V, Lissoni A, Provencher D, Genestie C, Nijman HW, Whitmarsh K, Jürgenliemk-Schulz IM, Feeney A, Lutgens LCHW, Bouma J, Leon-Castillo A, Nout RA, Putter H, Bosse T, Creutzberg CL. Hóa xạ trị bổ trợ so với xạ trị đơn thuần ở phụ nữ mắc ung thư nội mạc tử cung nguy cơ cao (PORTEC-3): Kết quả lâm sàng sau 10 năm và phân tích sau hoc theo phân loại phân tử từ một thử nghiệm ngẫu nhiên giai đoạn 3. Lancet Oncol. 2025 Sep 5:S1470-2045(25)00379-1. doi: 10.1016/S1470-2045(25)00379-1 IF: 35.9 Q1

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *