Nhấn mạnh
- Thử nghiệm CONKO-007 so sánh hóa trị dẫn nhập cộng hóa xạ trị (CRT) với hóa trị đơn thuần trong ung thư tụy không thể cắt bỏ ban đầu.
- Tỷ lệ cắt bỏ R0 tổng thể không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm CRT (25%) và nhóm hóa trị (18%).
- Trong số bệnh nhân tiếp tục phẫu thuật, CRT cải thiện đáng kể tỷ lệ cắt bỏ R0 (69.4% so với 50.0%) và chất lượng cắt bỏ tổng thể.
- Sự sống còn tổng thể không được cải thiện bởi CRT; tuy nhiên, việc cắt bỏ phẫu thuật bản thân đã liên quan đến sự sống còn lâu hơn đáng kể.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Ung thư tụy vẫn là một trong những khối u chết người nhất trên thế giới, với tỷ lệ sống còn 5 năm dưới 10%. Chỉ một thiểu số bệnh nhân xuất hiện khối u có thể cắt bỏ ngay lập tức, mang lại cơ hội tốt nhất để kiểm soát bệnh dài hạn. Một tập hợp đáng kể các bệnh nhân xuất hiện với khối u tiến triển cục bộ, không thể cắt bỏ do liên quan mạch máu hoặc mức độ bệnh. Trong những năm gần đây, các phác đồ hóa trị dẫn nhập như FOLFIRINOX đã được sử dụng để giảm giai đoạn của các khối u này để cho phép cắt bỏ phẫu thuật sau đó, gọi là liệu pháp chuyển đổi. Tuy nhiên, cách tiếp cận tối ưu sau hóa trị dẫn nhập—bao gồm việc có nên thêm hóa xạ trị (CRT) hay không—đã không rõ ràng, đặc biệt là về việc đạt được việc loại bỏ khối u hoàn toàn với biên âm tính (cắt bỏ R0) và cải thiện sự sống còn.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm CONKO-007 là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên pha III, mở nhãn, nhiều trung tâm do nhà nghiên cứu khởi xướng tại Đức. Tổng cộng 525 bệnh nhân mắc ung thư tụy không thể cắt bỏ đã được đăng ký, trong đó 495 bệnh nhân nhận hóa trị dẫn nhập: 402 với FOLFIRINOX và 93 với gemcitabine. Sau ba tháng hóa trị dẫn nhập, các bệnh nhân không tiến triển (n=336) được ngẫu nhiên hóa để tiếp tục cùng một phác đồ hóa trị (n=167) hoặc nhận hóa xạ trị (CRT) kết hợp 50.4 Gy xạ trị cùng gemcitabine (n=169). Ban phẫu thuật trung tâm đánh giá lại khả năng cắt bỏ khối u, và phẫu thuật được khuyến nghị khi khả thi. Thử nghiệm ban đầu nhằm đánh giá sự sống còn tổng thể nhưng chuyển sang điểm cuối chính là tỷ lệ cắt bỏ R0 tổng thể do việc tuyển chọn chậm. Thời gian theo dõi trung bình đạt 76 tháng. Điểm cuối phụ bao gồm tỷ lệ cắt bỏ R0 trong nhóm được điều trị phẫu thuật và sự sống còn tổng thể.
Kết quả chính
Điểm cuối chính—tỷ lệ cắt bỏ R0 tổng thể—không đạt ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm: 25% (43 trên 169) trong nhóm CRT so với 18% (30 trên 167) trong nhóm hóa trị đơn thuần (P=0.113). Tỷ lệ phẫu thuật thực hiện là tương đương giữa các nhóm (P=0.91). Tuy nhiên, trong số bệnh nhân đã phẫu thuật, CRT tăng đáng kể tỷ lệ cắt bỏ R0 lên 69.4% so với 50.0% trong nhóm hóa trị đơn thuần (P=0.04). Ngoài ra, các tham số đánh giá chất lượng biên cắt bỏ favor CRT (P=0.02), chỉ ra việc loại bỏ khối u tốt hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng hóa xạ trị.
Mặc dù có những cải thiện về tình trạng biên cắt bỏ với CRT, không có sự khác biệt thống kê đáng kể về sự sống còn tổng thể (hazard ratio [HR] 0.937; khoảng tin cậy 95% [CI], 0.747–1.174; P=0.57) trong dân số được điều trị theo nguyên tắc. Quan trọng là, bệnh nhân đã phẫu thuật có sự sống còn cải thiện đáng kể so với những người không phẫu thuật (HR 0.525; CI 95%, 0.408–0.676; P<0.001), nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc cắt bỏ phẫu thuật trong tiên lượng.
Không có tín hiệu an toàn mới nào được báo cáo ngoài độc tính dự kiến của hóa xạ trị và hóa trị. Nghiên cứu không chi tiết hóa hồ sơ các sự kiện bất lợi trong báo cáo này.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm CONKO-007 đại diện cho một trong những đánh giá ngẫu nhiên lớn nhất về việc thêm CRT sau hóa trị dẫn nhập hiệu quả trong ung thư tụy tiến triển cục bộ không thể cắt bỏ. Thiết kế nghiêm ngặt của nó, bao gồm đánh giá lại hình ảnh và phẫu thuật trung tâm, tăng cường tính hợp lệ của các kết quả.
Việc thiếu sự cải thiện về sự sống còn tổng thể mặc dù có cải thiện tỷ lệ cắt bỏ âm tính sau CRT có thể phản ánh nhiều yếu tố, bao gồm sinh học đa dạng của ung thư tụy, bệnh di căn vi thể và có thể do kích thước mẫu không đủ hoặc thời gian theo dõi không đủ để phát hiện sự khác biệt sống còn tinh vi. Sự cải thiện trong tỷ lệ cắt bỏ R0 đề xuất rằng CRT đóng góp vào việc kiểm soát khối u cục bộ tốt hơn, điều này có ý nghĩa lâm sàng do tỷ lệ tái phát cục bộ cao trong ung thư tụy.
Các hướng dẫn hiện tại của NCCN và các tổ chức quốc tế khác công nhận giá trị của hóa trị dẫn nhập trong ung thư tụy tiến triển cục bộ nhưng vẫn thận trọng về việc sử dụng thường xuyên CRT do dữ liệu không đồng nhất. CONKO-007 cung cấp bằng chứng cấp cao rằng CRT có thể là một bổ sung quý giá để tối ưu hóa kết quả phẫu thuật trong các bệnh nhân được lựa chọn, có thể ảnh hưởng đến các cập nhật hướng dẫn trong tương lai.
Giới hạn bao gồm tính chất mở nhãn của thử nghiệm, thay đổi điểm cuối chính trong quá trình thử nghiệm và nhóm nhỏ bệnh nhân được cắt bỏ phẫu thuật, hạn chế sức mạnh cho các điểm cuối sống còn. Nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào các dấu ấn sinh học dự đoán đáp ứng CRT và tích hợp các tác nhân hệ thống mới.
Kết luận
Ở bệnh nhân mắc ung thư tụy không thể cắt bỏ ban đầu đáp ứng với hóa trị dẫn nhập, việc thêm hóa xạ trị không tăng đáng kể tỷ lệ cắt bỏ R0 tổng thể hoặc cải thiện sự sống còn trong toàn bộ dân số được điều trị. Tuy nhiên, CRT tăng đáng kể khả năng đạt được cắt bỏ âm tính (R0) trong số những bệnh nhân được phẫu thuật, chỉ ra việc kiểm soát khối u cục bộ tốt hơn. Việc cắt bỏ phẫu thuật vẫn là yếu tố quyết định liên quan đến sự sống còn kéo dài, nhấn mạnh tầm quan trọng của các chiến lược điều trị đa mô đun nhằm chuyển đổi thành khả năng cắt bỏ. Nghiên cứu trong tương lai nên tinh chỉnh tiêu chí lựa chọn bệnh nhân và tối ưu hóa trình tự điều trị để tối đa hóa lợi ích lâm sàng trong bệnh lý thách thức này.
Tài liệu tham khảo
Fietkau R, Ghadimi M, Grützmann R, Wittel UA, Jacobasch L, Uhl W, Croner RS, Bechstein WO, Neumann UP, Waldschmidt D, Boeck S, Moosmann N, Reinacher-Schick AC, Golcher H, Adler W, Semrau S, Lubgan D, Kallies A, Hecht M, Tischoff I, Tannapfel A, Frey B, Oettle H; Nhóm Nghiên cứu CONKO. Lợi ích của hóa xạ trị so với hóa trị sau điều trị dẫn nhập để chuyển đổi từ không thể cắt bỏ thành có thể cắt bỏ ung thư tụy: Thử nghiệm ngẫu nhiên CONKO-007. J Clin Oncol. 2025 Aug 13:JCO2401502. doi: 10.1200/JCO-24-01502. Epub trước khi in. PMID: 40802908.
Von Hoff DD, Ervin T, Arena FP, et al. Tăng sự sống còn trong ung thư tụy với nab-Paclitaxel cộng Gemcitabine. N Engl J Med. 2013;369(18):1691-1703.
Tempero MA, Malafa MP, Al-Hawary M, et al. Ung thư tuỵ tân sinh, Phiên bản 2.2021, Hướng dẫn lâm sàng NCCN. J Natl Compr Canc Netw. 2021 Nov;19(4):439-457.