Đánh giá tác động của Telestroke đối với thời gian điều trị và kết quả của đột quỵ thiếu máu não cấp tính

Đánh giá tác động của Telestroke đối với thời gian điều trị và kết quả của đột quỵ thiếu máu não cấp tính

Nhấn mạnh

1. Việc sử dụng Telestroke liên quan đến khả năng nhận thrombolysis tĩnh mạch cao hơn 61% ở bệnh nhân đột quỵ thiếu máu não cấp tính đủ điều kiện điều trị.
2. Mặc dù tỷ lệ điều trị tăng lên, việc đánh giá bằng Telestroke tương ứng với thời gian từ cửa đến kim (DTN) dài hơn và khả năng đạt được DTN theo khuyến nghị trong 60 phút thấp hơn.
3. Bệnh nhân được chuyển viện và đánh giá bằng Telestroke trải qua thời gian từ cửa vào đến cửa ra (DIDO) dài hơn đáng kể so với những người không được đánh giá qua Telestroke.
4. Những phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết phải xác định và giảm thiểu các yếu tố gây chậm trễ trong quá trình điều trị liên quan đến Telestroke để tối ưu hóa kết quả của bệnh nhân.

Nền tảng nghiên cứu

Đột quỵ thiếu máu não cấp tính (AIS) là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật lâu dài trên toàn cầu, với việc tái thông kịp thời là yếu tố then chốt để cải thiện kết quả chức năng. Thrombolysis tĩnh mạch bằng plasminogen activator (tPA) là nhạy cảm về thời gian và lý tưởng nhất nên được tiêm trong vòng 60 phút sau khi nhập viện (thời gian từ cửa đến kim, DTN), như được khuyến nghị bởi các hướng dẫn quản lý đột quỵ.

Dịch vụ Telestroke, tận dụng công nghệ y tế từ xa, mở rộng khả năng tiếp cận đánh giá và quyết định điều trị chuyên gia đột quỵ, đặc biệt là tại các bệnh viện nông thôn hoặc có nguồn lực hạn chế. Mặc dù các chương trình Telestroke có thể tăng khả năng tiếp cận thrombolysis, vẫn còn lo ngại về các chậm trễ tiềm ẩn trong việc đánh giá từ xa và chuyển viện giữa các bệnh viện, có thể làm mất đi lợi ích. Nghiên cứu này nhằm làm rõ cách Telestroke so sánh với khám truyền thống về thời gian điều trị và kết quả trong bối cảnh đăng ký đột quỵ thực tế.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu này là một nghiên cứu hồi cứu trên dữ liệu từ Đăng ký Đột quỵ Michigan Paul Coverdell, bao gồm 42 bệnh viện và bao gồm người lớn từ 18 tuổi trở lên mắc AIS từ ngày 1 tháng 1 năm 2022 đến ngày 31 tháng 12 năm 2023. Tiêu chí bao gồm tập trung vào bệnh nhân nhập viện trong vòng 4 giờ kể từ thời điểm cuối cùng biết khỏe mạnh và không có chống chỉ định thrombolysis đã ghi, do đó đủ điều kiện cho thrombolysis tĩnh mạch.

Phơi nhiễm được định nghĩa là đánh giá bệnh nhân qua tư vấn Telestroke so với không có Telestroke (đánh giá thần kinh trực tiếp truyền thống). Điểm cuối chính là việc nhận thrombolysis và thời gian từ cửa đến kim, cả dưới dạng liên tục và phân loại thành ≤60 phút và >60 phút. Kết quả phụ đánh giá trạng thái di chuyển khi xuất viện, tình trạng xuất viện, và thời gian từ cửa vào đến cửa ra ở bệnh nhân chuyển viện.

Các mô hình hồi quy logistic và tuyến tính phân tầng đa biến điều chỉnh theo thứ tự cho các biến nhân khẩu học, tiền sử y tế, đặc điểm nhập viện, và thuộc tính bệnh viện để đánh giá mối liên hệ giữa việc sử dụng Telestroke và kết quả.

Phát hiện chính

Trong số 3.036 bệnh nhân đủ điều kiện được phân tích (tuổi trung bình 69,7 tuổi, 51,5% nam giới), 785 (25,9%) được đánh giá bằng Telestroke và 2.251 (74,1%) được đánh giá trực tiếp mà không có Telestroke.


Sử dụng Thrombolysis:

Tỷ lệ tổng thể thrombolysis là 55,1%. Bệnh nhân được đánh giá qua Telestroke có khả năng nhận thrombolysis cao hơn đáng kể (tỷ lệ nguy cơ điều chỉnh [aOR], 1,61; khoảng tin cậy 95% [CI], 1,17-2,23), chỉ ra rằng việc hỗ trợ Telestroke giúp tăng khả năng tiếp cận điều trị tái thông.

Thời gian từ cửa đến kim:

Mặc dù tỷ lệ thrombolysis cao hơn, bệnh nhân Telestroke trải qua thời gian DTN trung bình dài hơn 6,55 phút (95% CI, 2,12-10,97 phút). Hơn nữa, bệnh nhân Telestroke có khả năng đạt được DTN ≤60 phút theo khuyến nghị thấp hơn 44% (aOR, 0,56; 95% CI, 0,39-0,81).

Bệnh nhân chuyển viện và thời gian từ cửa vào đến cửa ra:

Trong số 255 bệnh nhân chuyển viện, 81,2% nhận thrombolysis. Những người được đánh giá bằng Telestroke có thời gian DIDO dài hơn trung bình 46,90 phút (95% CI, 1,08-92,72 phút), phản ánh chậm trễ liên quan đến việc chuyển viện có thể bị làm trầm trọng thêm bởi logistics đánh giá từ xa.

Kết quả phụ:

Trạng thái di chuyển và tình trạng xuất viện không được báo cáo chi tiết nhưng là các tham số lâm sàng quan trọng cần được điều tra thêm trong các nghiên cứu tương lai.

Bình luận chuyên gia

Các phát hiện cung cấp hiểu biết tinh tế quan trọng về vai trò của Telestroke trong chăm sóc đột quỵ cấp tính. Mặc dù Telestroke tăng đáng kể tỷ lệ sử dụng thrombolysis—một bước tiến quan trọng hướng tới cải thiện sự công bằng trong điều trị—lợi thế này bị hạn chế bởi các chậm trễ trong việc bắt đầu tái thông và quá trình chuyển viện. Chậm trễ trung bình 6-7 phút DTN và thời gian DIDO dài hơn đáng kể trong chuyển viện có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của bệnh nhân, vì đột quỵ rất nhạy cảm với thời gian.

Các cơ chế tiềm năng gây chậm trễ bao gồm thách thức phối hợp cố hữu trong tư vấn từ xa, vấn đề liên quan đến công nghệ, các bước bổ sung trong đường dây giao tiếp, hoặc hạn chế nguồn lực tại các bệnh viện vệ tinh. Những phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu trước đây cho thấy hệ thống y tế từ xa không chỉ cần được tối ưu hóa cho độ chính xác chẩn đoán mà còn cho hiệu quả quy trình làm việc.

Hướng dẫn đột quỵ nhấn mạnh DTN ≤60 phút là một chỉ số chất lượng, và tỷ lệ giảm khả năng đạt được tiêu chuẩn này với Telestroke đòi hỏi can thiệp cải thiện chất lượng có mục tiêu. Các chiến lược có thể bao gồm quy trình tư vấn từ xa được đơn giản hóa, đào tạo nâng cao cho đội ngũ chăm sóc đột quỵ địa phương, và các giao thức tiêu chuẩn để đẩy nhanh hình ảnh học, ra quyết định, và tiêm thrombolysis.

Hạn chế của nghiên cứu bao gồm bản chất hồi cứu và thiếu dữ liệu chi tiết về kết quả chức năng và các thành phần chăm sóc đột quỵ trong bệnh viện ảnh hưởng đến chậm trễ. Tính tổng quát có thể thay đổi tùy thuộc vào mức độ chín muồi của chương trình Telestroke và hệ thống y tế khu vực.

Tổng cộng, nghiên cứu này cung cấp một cơ sở bằng chứng quan trọng để tinh chỉnh việc triển khai Telestroke và cân nhắc giữa lợi ích của việc mở rộng tiếp cận và giảm thiểu chậm trễ trong điều trị.

Kết luận

Trong quản lý đột quỵ thiếu máu não cấp tính, tư vấn Telestroke cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận thrombolysis, tăng tỷ lệ điều trị hơn 60%. Tuy nhiên, lợi ích này bị bù đắp bởi việc kéo dài thời gian từ cửa đến kim và chậm trễ trong việc chuyển viện, là những yếu tố quyết định quan trọng của kết quả lâm sàng. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc xác định các yếu tố có thể cải thiện trong quy trình làm việc của Telestroke để giảm thời gian điều trị và cải thiện sự phù hợp với hướng dẫn. Cải thiện cơ sở hạ tầng y tế từ xa và hiệu suất quy trình có thể tối ưu hóa việc cung cấp chăm sóc đột quỵ, đặc biệt là ở các vùng không được phục vụ đầy đủ, cuối cùng cải thiện tiên lượng của bệnh nhân.

Hỗ trợ tài chính và ClinicalTrials.gov

Nghiên cứu được hỗ trợ bởi Đăng ký Đột quỵ Michigan Paul Coverdell, không có xung đột lợi ích được tuyên bố. Không có đăng ký thử nghiệm lâm sàng được chỉ định cho phân tích đăng ký hồi cứu này.

Tài liệu tham khảo

  1. Stamm B, Whitney RT, Royan R, et al. Telestroke and Timely Treatment and Outcomes in Patients With Acute Ischemic Stroke. JAMA Netw Open. 2025;8(9):e2534275. doi:10.1001/jamanetworkopen.2025.34275.
  2. Saver JL. Time is brain—quantified. Stroke. 2006 Jan;37(1):263-6. doi:10.1161/01.STR.0000196957.55928.ab.
  3. American Heart Association/American Stroke Association Stroke Council. 2019 Update to the 2018 Guidelines for Early Management of Acute Ischemic Stroke. Stroke. 2019 Mar;50(3):e344-e418. doi:10.1161/STR.0000000000000211.
  4. Silva GS, Farrell S, Shandra E, Viswanathan A, Schwamm LH. The Status of Telestroke in the United States. A Survey of Currently Operational Telestroke Networks. Stroke. 2012 Oct;43(10):2078-85. doi:10.1161/STROKEAHA.112.670484.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *