Sử dụng Xét nghiệm Biểu hiện Gen 12 để Cá nhân hóa Xạ trị trong Carcinoma ống dẫn không xâm lấn: Những nhận xét từ một Thử nghiệm Lâm sàng Triển vọng

Sử dụng Xét nghiệm Biểu hiện Gen 12 để Cá nhân hóa Xạ trị trong Carcinoma ống dẫn không xâm lấn: Những nhận xét từ một Thử nghiệm Lâm sàng Triển vọng

Những điểm nổi bật

  • Thử nghiệm đa trung tâm triển vọng này đánh giá việc sử dụng xét nghiệm biểu hiện gen 12 (điểm DCIS) để hướng dẫn xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn vú ở bệnh nhân mắc carcinoma ống dẫn không xâm lấn (DCIS).
  • Trong số 171 phụ nữ có phẫu thuật cắt rộng thành công và dữ liệu điểm DCIS, tuân thủ khuyến nghị của xét nghiệm gen tương quan với tỷ lệ sự kiện vú bên cạnh (IBE) 5 năm thấp khoảng 5%, bất kể nhóm nguy cơ gen.
  • Kết quả hỗ trợ việc bỏ qua xạ trị chọn lọc cho bệnh nhân có điểm DCIS thấp và sử dụng xạ trị cho điểm trung bình/cao, có tiềm năng cá nhân hóa quản lý DCIS và giảm quá điều trị.
  • Cần các thử nghiệm xác nhận quy mô lớn hơn để kiểm chứng những kết quả đầy hứa hẹn này và tích hợp các xét nghiệm phân tử vào đường lối quyết định lâm sàng của DCIS.

Nền tảng Nghiên cứu

Carcinoma ống dẫn không xâm lấn (DCIS) là một dạng ung thư vú không xâm lấn, đặc trưng bởi tế bào ác tính bị giam giữ trong ống sữa. Lịch sử tự nhiên của nó là khác biệt, từ các tổn thương ít tiến triển thành ung thư xâm lấn đến các tiểu loại hung hiểm với nguy cơ tái phát cao. Điều trị tiêu chuẩn cho DCIS được phát hiện qua sàng lọc thường bao gồm phẫu thuật bảo tồn vú (cắt rộng, WLE), thường được theo sau bằng xạ trị để giảm nguy cơ tái phát. Tuy nhiên, việc áp dụng xạ trị thông thường có thể dẫn đến quá điều trị ở bệnh nhân có bệnh nhẹ, phơi nhiễm họ với tác dụng phụ không cần thiết mà không có lợi ích rõ ràng.

Chiến lược điều trị cá nhân hóa do đó là cần thiết để cân bằng giữa việc ngăn ngừa tái phát và độc tính của điều trị. Một xét nghiệm biểu hiện gen 12, được gọi là điểm DCIS (DS), đã xuất hiện như một công cụ phân tử hứa hẹn để phân loại nguy cơ DCIS và hướng dẫn quyết định xạ trị. Nghiên cứu này trình bày các kết quả ung thư học triển vọng đầu tiên đánh giá khuyến nghị xạ trị sau phẫu thuật dựa trên điểm DS.

Thiết kế Nghiên cứu

Nghiên cứu này là một thử nghiệm đơn cánh, đa trung tâm, triển vọng, đã đăng ký 339 phụ nữ có DCIS được phát hiện qua sàng lọc đủ điều kiện cho WLE từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016 tại 75 tổ chức trong Nhóm Hợp tác Ung thư phía Đông-Hội Chụp ảnh Hình ảnh X quang Hoa Kỳ. Chụp cộng hưởng từ vú tiền phẫu (MRI) đã được thực hiện để hướng dẫn lập kế hoạch phẫu thuật.

Các đối tượng đã trải qua WLE, và những người có bờ phẫu thuật âm tính và kết quả xét nghiệm điểm DCIS thành công (n=171) tạo thành nhóm cho phân tích theo quy định trước. Sau phẫu thuật, khuyến nghị xạ trị được hướng dẫn bởi điểm DCIS: bỏ qua xạ trị cho điểm DS thấp (<39) và thực hiện xạ trị cho điểm DS trung bình/cao (≥39).

Các đối tượng được theo dõi mỗi sáu tháng trong tối đa năm năm để giám sát sự kiện vú bên cạnh (IBE), bao gồm cả tái phát DCIS và ung thư vú xâm lấn trong cùng một vú. Điểm cuối chính là tỷ lệ IBE 5 năm.

Những phát hiện chính

Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 59,1 tuổi. Trong số 171 phụ nữ có bờ phẫu thuật âm tính và kết quả điểm DCIS, tuân thủ khuyến nghị xạ trị dựa trên xét nghiệm là cao (93,0%). Cụ thể, 8,5% bệnh nhân có điểm DS thấp đã nhận xạ trị trái với khuyến nghị, và 5,6% bệnh nhân có điểm DS trung bình/cao từ chối xạ trị.

Sau thời gian theo dõi trung bình 5 năm, 8 đối tượng đã trải qua sự kiện vú bên cạnh, dẫn đến tỷ lệ IBE 5 năm tổng thể là 4,8% (95% CI, 2,4%-9,4%). Tỷ lệ IBE 5 năm cho nhóm điểm DS thấp là 5,1% (95% CI, 1,9%-12,9%) và cho nhóm điểm DS trung bình/cao là 4,5% (95% CI, 1,7%-11,7%), cho thấy kết quả tương đương.

Trong số những người tuân thủ nghiêm ngặt khuyến nghị xạ trị, tỷ lệ IBE là 5,5% cho bệnh nhân điểm DS thấp và 4,8% cho bệnh nhân điểm DS trung bình/cao, củng cố rằng hướng dẫn dựa trên xét nghiệm gen có thể an toàn chỉ đạo việc sử dụng xạ trị.

Những tỷ lệ IBE 5 năm này, đặc biệt là nguy cơ tái phát khoảng 5% ở bệnh nhân điểm DCIS trung bình/cao nhận xạ trị, thấp đáng kể so với dữ liệu lịch sử từ WLE đơn thuần, cho thấy rằng xạ trị dựa trên xét nghiệm phân tử cải thiện phân loại nguy cơ và hiệu quả điều trị.

Bình luận Chuyên gia

Thử nghiệm này đáng chú ý thúc đẩy y học cá nhân hóa bằng cách xác nhận triển vọng lâm sàng của xét nghiệm biểu hiện gen 12 để hướng dẫn xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn vú trong DCIS. Bằng cách tích hợp hồ sơ phân tử, các bác sĩ có thể xác định tốt hơn những bệnh nhân có thể an toàn bỏ qua xạ trị và những người được hưởng lợi nhiều nhất, cân bằng hiệu quả điều trị với gánh nặng tác dụng phụ.

Tuy nhiên, nghiên cứu bị hạn chế bởi thiết kế đơn cánh và kích thước mẫu vừa phải, hạn chế kết luận quyết định. Ngoài ra, kết quả dài hạn vượt quá 5 năm sẽ cần thiết để xác lập độ bền của lợi ích do nguy cơ kéo dài của DCIS. Các nghiên cứu ngẫu nhiên tương lai so sánh quản lý dựa trên xét nghiệm với đường lối điều trị tiêu chuẩn sẽ làm sáng tỏ thêm tác động lâm sàng.

Những phát hiện này phù hợp với xu hướng hướng dẫn gần đây nhấn mạnh tiếp cận cá nhân hóa dựa trên dấu ấn sinh học trong ung thư vú giai đoạn sớm và nhấn mạnh tiềm năng của xét nghiệm biểu hiện gen để tinh chỉnh quản lý DCIS hơn nữa.

Kết luận

Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng triển vọng quan trọng hỗ trợ việc tích hợp xét nghiệm biểu hiện gen 12, điểm DCIS, để hướng dẫn xạ trị sau WLE ở bệnh nhân mắc carcinoma ống dẫn không xâm lấn. Tiếp cận dựa trên xét nghiệm đạt được tỷ lệ sự kiện vú bên cạnh thấp và tuân thủ cao, cho thấy nó có thể an toàn giúp bỏ qua xạ trị ở các trường hợp nguy cơ thấp và sử dụng thích hợp khi nguy cơ tăng.

Mặc dù hứa hẹn, nhưng cần các thử nghiệm ngẫu nhiên quy mô lớn và theo dõi lâu hơn trước khi áp dụng lâm sàng rộng rãi. Tuy nhiên, xét nghiệm phân tử này minh họa cho mô hình mới nổi của y học chính xác, nhằm điều chỉnh cường độ điều trị DCIS dựa trên sinh học khối u cá nhân và giảm các can thiệp không cần thiết.

Tài trợ và Đăng ký Thử nghiệm Lâm sàng

Nghiên cứu này được thực hiện dưới sự bảo trợ của Nhóm Hợp tác Ung thư phía Đông-Hội Chụp ảnh Hình ảnh X quang Hoa Kỳ và đã đăng ký tại ClinicalTrials.gov (Mã định danh: NCT02352883).

Tài liệu tham khảo

Khan SA, Romanoff J, Gatsonis C, et al. Radiotherapy With a 12-Gene Expression Assay for Ductal Carcinoma In Situ: A Randomized Clinical Trial. JAMA Oncol. 2025 Oct 16:e254079. doi:10.1001/jamaoncol.2025.4079. Epub ahead of print. PMID: 41100122; PMCID: PMC12532027.

Early Breast Cancer Trialists’ Collaborative Group (EBCTCG). Effect of radiotherapy after breast-conserving surgery on 10-year recurrence and 15-year breast cancer death: meta-analysis of individual patient data for 10,801 women in 17 randomised trials. Lancet. 2011;378(9804):1707-1716.

Solin LJ, Gray R, Baehner FL, et al. A multigene expression assay to predict local recurrence risk for ductal carcinoma in situ of the breast. J Natl Cancer Inst. 2013;105(10):701-710.

Worni M, Akushevich I, Greenup R, et al. Comparing treatment strategies of ductal carcinoma in situ: a population-based cohort study. J Natl Cancer Inst. 2015;107(12):djv263.

Burstein HJ, Curigliano G, Loibl S, et al. Estimation of Benefits and Harms of Active Surveillance for Ductal Carcinoma In Situ: A Decision Analysis. JAMA Oncol. 2016;2(8):977–984.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *