Nổi bật
• Lisocabtagene maraleucel (liso-cel) cho thấy cải thiện đáng kể về thời gian sống không có sự kiện và thời gian sống không tiến triển so với liệu pháp chuẩn (SOC) sau 3 năm trong liệu pháp thứ hai đối với lymphôm tế bào B lớn tái phát/kháng trị (LBCL).
• Thời gian sống không có sự kiện trung bình với liso-cel là 29,5 tháng so với 2,4 tháng với SOC; thời gian sống không tiến triển chưa đạt được với liso-cel, so với 6,2 tháng với SOC.
• Lợi ích về thời gian sống tổng thể (OS) với liso-cel trở nên rõ ràng hơn sau khi điều chỉnh cho các phương pháp điều trị chuyển tiếp, hỗ trợ tiềm năng chữa khỏi của nó.
• Hồ sơ an toàn của liso-cel vẫn nhất quán với các kết quả trước đây mà không có tín hiệu an toàn mới trong thời gian theo dõi kéo dài.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh lý
Lymphôm tế bào B lớn (LBCL) đại diện cho phân nhóm phổ biến nhất của lymphôm Hodgkin không phải, với các kết quả lâm sàng đa dạng. Bệnh nhân LBCL kháng trị hoặc tái phát sớm (trong vòng 12 tháng) sau liệu pháp đầu tiên thường đối mặt với tiên lượng xấu. Liệu pháp thứ hai tiêu chuẩn bao gồm hóa miễn dịch cứu chữa theo sau là ghép tế bào gốc tự thân (ASCT) ở bệnh nhân đủ điều kiện. Tuy nhiên, các liệu pháp truyền thống thường thất bại trong việc gây ra sự thuyên giảm bền vững ở nhóm nguy cơ cao này, làm nổi bật nhu cầu cấp thiết về các liệu pháp thứ hai hiệu quả hơn.
Liệu pháp tế bào T có thụ thể kháng nguyên chimeric (CAR) nhắm vào CD19 đã cách mạng hóa việc điều trị trong lymphôm tế bào B lớn tái phát/kháng trị sau nhiều liệu pháp trước đó, nhưng vai trò của chúng như một liệu pháp thứ hai vẫn đang được điều tra. Lisocabtagene maraleucel (liso-cel), một sản phẩm tế bào T CAR có thành phần xác định, cung cấp một lựa chọn điều trị mới có tiềm năng cải thiện kết quả sống sót trong liệu pháp thứ hai cho bệnh nhân đủ điều kiện để ASCT. Nghiên cứu ngẫu nhiên, giai đoạn III TRANSFORM được thiết kế để so sánh trực tiếp liso-cel với SOC ở nhóm nguy cơ cao này.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu TRANSFORM là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mở nhãn giai đoạn III tuyển dụng người lớn (N=184) với lymphôm tế bào B lớn thứ hai kháng trị chính hoặc tái phát sớm (≤12 tháng từ liệu pháp đầu tiên) đủ điều kiện để ASCT. Người tham gia được ngẫu nhiên hóa 1:1 để nhận liso-cel (được tiêm 100 × 106 tế bào T dương tính với CAR) hoặc SOC, bao gồm hóa miễn dịch cứu chữa theo sau là ASCT.
Các điểm cuối chính được đánh giá bao gồm thời gian sống không có sự kiện (EFS), thời gian sống không tiến triển (PFS) và thời gian sống tổng thể (OS). Các điểm cuối phụ bao gồm an toàn, thời gian đáp ứng và các biện pháp chất lượng cuộc sống. Các đặc điểm quan trọng bao gồm cho phép bệnh nhân chuyển từ SOC sang liso-cel khi bệnh tiến triển, điều này được tính toán trong các phân tích sống sót bằng các phương pháp thống kê phù hợp. Thời gian theo dõi trung bình cho bản cập nhật 3 năm này là 33,9 tháng.
Các kết quả chính
Sau thời gian theo dõi trung bình gần 3 năm, kết quả cho thấy lợi ích hiệu quả bền vững đáng kể cho liso-cel so với SOC.
Thời gian sống không có sự kiện: Thời gian EFS trung bình là 29,5 tháng (95% CI, 9,5 đến không đạt) cho nhóm liso-cel so với 2,4 tháng (95% CI, 2,2 đến 4,9 tháng) cho nhóm SOC. Hệ số nguy cơ (HR) cho EFS là 0,375 (95% CI, 0,259 đến 0,542), chỉ ra giảm 62,5% nguy cơ tiến triển, tái phát hoặc tử vong với liso-cel.
Thời gian sống không tiến triển: Thời gian PFS trung bình chưa đạt được (95% CI, 12,6 tháng đến không đạt) cho liso-cel so với 6,2 tháng (95% CI, 4,3 đến 8,6 tháng) cho SOC, với HR là 0,422 (95% CI, 0,279 đến 0,639). Tỷ lệ PFS sau 36 tháng là 51% cho liso-cel so với 26,5% cho SOC, minh họa khả năng kiểm soát bệnh vượt trội.
Thời gian sống tổng thể: Thời gian OS trung bình chưa đạt được ở cả hai nhóm tại thời điểm phân tích. HR chưa điều chỉnh là 0,757 (95% CI, 0,481 đến 1,191), với tỷ lệ OS sau 36 tháng là 63% cho liso-cel và 52% cho SOC. Quan trọng là, 66% bệnh nhân trong nhóm SOC đã chuyển sang nhận liso-cel, gây phức tạp cho việc diễn giải OS. Sau khi điều chỉnh cho các tác động chuyển tiếp bằng các mô hình thời gian thất bại cấu trúc bảo toàn hạng, HR OS điều chỉnh ủng hộ liso-cel đáng kể tại 0,566 (95% CI, 0,359 đến 0,895), gợi ý lợi ích sống sót có ý nghĩa.
An toàn: Hồ sơ an toàn của liso-cel nhất quán với các báo cáo trước đây, không có sự kiện bất lợi mới hoặc không mong đợi xuất hiện trong thời gian theo dõi dài hạn. Các sự kiện bất lợi phổ biến liên quan đến liệu pháp tế bào T CAR bao gồm hội chứng giải phóng cytokine và độc tính thần kinh, thường có thể quản lý được với chăm sóc hỗ trợ đương đại. So với SOC, nhóm liso-cel thể hiện hồ sơ dung nạp thuận lợi hơn.
Bình luận chuyên gia
Dữ liệu 3 năm của nghiên cứu TRANSFORM củng cố vai trò của lisocabtagene maraleucel như một liệu pháp thứ hai cách mạng cho bệnh nhân có nguy cơ cao lymphôm tế bào B lớn tái phát/kháng trị. Sự cải thiện đáng kể về thời gian sống không có sự kiện và thời gian sống không tiến triển, cùng với các dấu hiệu mạnh mẽ về cải thiện thời gian sống tổng thể sau khi điều chỉnh cho việc chuyển tiếp, đánh dấu một bước tiến đáng kể so với hóa miễn dịch cứu chữa và ASCT.
Từ góc độ cơ chế, thành phần tế bào xác định và quy trình sản xuất được kiểm soát của liso-cel có thể đóng góp vào hiệu quả và ưu điểm an toàn của nó. Hơn nữa, các kết quả này phù hợp với bằng chứng mới nổi hỗ trợ việc sử dụng sớm liệu pháp tế bào T CAR trong lymphôm hung hãn, thách thức các mô hình điều trị tuần tự truyền thống.
Đáng chú ý, việc cho phép bệnh nhân chuyển sang liso-cel sau khi SOC thất bại phản ánh thực hành lâm sàng thực tế nhưng làm phức tạp việc diễn giải OS. Các điều chỉnh thống kê được sử dụng giúp làm rõ hiệu ứng điều trị nhưng làm nổi bật khó khăn trong việc duy trì sự cân bằng trong các cảnh quan điều trị tiến triển nhanh chóng. Tuy nhiên, sự thuyên giảm bền vững được quan sát hỗ trợ giả thuyết về lợi ích chữa khỏi tiềm năng trong nhóm này.
Hạn chế bao gồm việc tuyển dụng giới hạn ở bệnh nhân đủ điều kiện để ASCT, để lại khoảng trống bằng chứng cho những người không đủ điều kiện ghép. Các nghiên cứu bổ sung có thể xác định thêm các dấu hiệu sinh học dự đoán đáp ứng và mở rộng quyền truy cập.
Kết luận
Kết quả theo dõi 3 năm từ nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn III TRANSFORM chứng minh một cách thuyết phục rằng lisocabtagene maraleucel cung cấp hiệu quả bền vững vượt trội với hồ sơ an toàn có thể quản lý so với hóa miễn dịch cứu chữa tiêu chuẩn theo sau là ASCT trong liệu pháp thứ hai cho lymphôm tế bào B lớn tái phát/kháng trị. Các kết quả này hỗ trợ liso-cel như một tiêu chuẩn mới của liệu pháp thứ hai với tác động cách mạng và có thể chữa khỏi đối với nhóm bệnh nhân nguy cơ cao này.
Hướng nghiên cứu trong tương lai bao gồm đánh giá liso-cel trên các nhóm bệnh nhân rộng hơn, tối ưu hóa các chiến lược sắp xếp và điều tra các cách tiếp cận kết hợp để cải thiện hơn nữa kết quả. Các bác sĩ nên xem xét tích hợp liệu pháp tế bào T CAR vào các dòng điều trị sớm hơn cho bệnh nhân đủ điều kiện để tối đa hóa sự sống sót và chất lượng cuộc sống lâu dài.
Tài liệu tham khảo
Kamdar M, Solomon SR, Arnason J, Johnston PB, Glass B, Bachanova V, Ibrahimi S, Mielke S, Mutsaers P, Hernandez-Ilizaliturri F, Izutsu K, Morschhauser F, Lunning M, Chow VA, Montheard S, Santamaria J, Colicino S, Ogasawara K, Stepan L, Liu FF, Abramson JS. Lisocabtagene Maraleucel Versus Standard of Care for Second-Line Relapsed/Refractory Large B-Cell Lymphoma: 3-Year Follow-Up From the Randomized, Phase III TRANSFORM Study. J Clin Oncol. 2025 Aug 20;43(24):2671-2678. doi: 10.1200/JCO-25-00399. Epub 2025 Jul 7. PMID: 40623279; PMCID: PMC12352567.