Nổi bật
– Hai phần ba phụ nữ mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) đã cho con bú sau khi sinh con sống sót sau chẩn đoán ung thư.
– Thời gian cho con bú vượt quá 4 tháng ở hơn một nửa số người tham gia.
– Không có sự gia tăng nguy cơ ngắn hạn về các sự kiện liên quan đến ung thư vú ở những phụ nữ cho con bú.
– Tỷ lệ cho con bú cao hơn ở phụ nữ trên 35 tuổi và những người chưa có con.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Ung thư vú (BC) là bệnh ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới, với subtype dương tính với thụ thể hormon (HR+) chiếm một tỷ lệ lớn. Số lượng phụ nữ trẻ sống sót sau giai đoạn đầu của bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) ngày càng tăng và tìm cách mang thai và cho con bú sau khi được chẩn đoán. Tuy nhiên, hướng dẫn lâm sàng về độ an toàn của việc cho con bú sau khi mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) bị hạn chế do lo ngại về nguy cơ tái phát ung thư và môi trường hormon trong quá trình cho con bú có thể kích thích tế bào khối u còn lại. Điều trị nội tiết (ET) là trụ cột của điều trị bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+), thường bị tạm ngừng để cho phép mang thai, nhưng tác động của việc cho con bú trong bối cảnh này vẫn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Điều này tạo ra sự không chắc chắn cho những người sống sót về việc theo đuổi làm mẹ và lựa chọn nuôi dưỡng trẻ sơ sinh sau điều trị, nhấn mạnh nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng đối với các khuyến nghị dựa trên bằng chứng.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm POSITIVE là một nghiên cứu quốc tế đa trung tâm triển vọng (ClinicalTrials.gov NCT02308085) đã tuyển chọn phụ nữ mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) ở giai đoạn sớm đã tạm ngừng điều trị nội tiết (ET) để thử mang thai. Thử nghiệm này chủ yếu được thiết kế để đánh giá độ an toàn của việc tạm ngừng điều trị nội tiết (ET) đối với nguy cơ tái phát ung thư vú. Phân tích hiện tại tập trung vào những phụ nữ có sinh con sống sót trong suốt thời gian nghiên cứu. Nó mô tả các mô hình cho con bú bao gồm tần suất, thời gian và bên cho con bú (cho con bú từ một hay cả hai bên vú) sau phẫu thuật bảo tồn vú (BCS) hoặc cắt bỏ vú đơn phương. Ngoài ra, nó so sánh tỷ lệ tích lũy các sự kiện liên quan đến ung thư vú giữa những phụ nữ cho con bú và những phụ nữ không cho con bú, trong thời gian theo dõi trung bình là 41 tháng.
Kết quả chính
Trong số 317 phụ nữ có ít nhất một lần sinh con sống sót, 313 người đủ điều kiện để phân tích cho con bú. Phần lớn, 196 (62.6%), đã cho con bú. Tần suất cho con bú thay đổi theo lịch sử phẫu thuật: 77.8% phụ nữ đã phẫu thuật bảo tồn vú (BCS) đã cho con bú và, đáng chú ý, 69.2% phụ nữ này chỉ cho con bú từ bên vú không bị ảnh hưởng. Trong số 146 phụ nữ đã phẫu thuật cắt bỏ vú đơn phương, 45.2% đã cho con bú.
Việc cho con bú phổ biến hơn đáng kể ở phụ nữ trên 35 tuổi (67.6% so với 55.7%) và những người chưa có con (66.4% so với 48.5%). Thời gian cho con bú được duy trì đáng khích lệ, với thời gian trung bình là 4.4 tháng và hơn một nửa (52.6%) cho con bú trong hơn 4 tháng.
Về kết quả của ung thư vú, tỷ lệ tích lũy các sự kiện liên quan đến ung thư vú sau 24 tháng kể từ lần sinh con sống sót đầu tiên trên nghiên cứu là 3.6% ở phụ nữ cho con bú và 3.1% ở phụ nữ không cho con bú, sự khác biệt nhỏ là 0.5% (95% CI, -4.3% đến 5.2%). Điều này cho thấy không có sự gia tăng đáng kể nguy cơ tái phát ung thư vú ngắn hạn liên quan đến việc cho con bú sau khi tạm ngừng điều trị nội tiết (ET) và sinh con sống sót ở những phụ nữ sống sót sau bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+).
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm POSITIVE mở rộng những hiểu biết quan trọng cho các bác sĩ tư vấn cho phụ nữ tiền mãn kinh mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) mong muốn mang thai và cho con bú. Việc cho con bú không chỉ khả thi cho một tỷ lệ đáng kể phụ nữ sau điều trị mà còn không dường như làm tăng nguy cơ tái phát ung thư vú trong thời gian ngắn. Khả năng cho con bú chủ yếu từ bên vú không bị ảnh hưởng sau phẫu thuật bảo tồn vú (BCS) hoặc thậm chí sau phẫu thuật cắt bỏ vú đơn phương là một sự an tâm.
Những kết quả này phù hợp với hiểu biết sinh học rằng một khi điều trị nội tiết (ET) được tiếp tục sau khi cho con bú, môi trường nội tiết trở lại mức bị ức chế. Mặc dù dữ liệu dài hạn đang được chờ đợi, nghiên cứu này thách thức sự thận trọng lịch sử về việc cho con bú sau khi mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+), hỗ trợ quyết định chung cá nhân hóa về sức khỏe sinh sản.
Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm thời gian theo dõi tương đối ngắn và bản chất quan sát của hành vi cho con bú, có thể bị nhiễu bởi sở thích của bệnh nhân và lời khuyên lâm sàng. Dân số tham gia thử nghiệm, rất có động lực theo đuổi mang thai, có thể không đại diện đầy đủ cho tất cả những phụ nữ sống sót sau bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+).
Kết luận
Thử nghiệm POSITIVE chứng minh rằng trong số phụ nữ mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon (HR+) ở giai đoạn sớm tạm ngừng điều trị nội tiết (ET) để đạt được mang thai, hai phần ba đã cho con bú thành công trong thời gian trung bình vượt quá bốn tháng. Quan trọng là, không có sự gia tăng rủi ro đáng kể về các sự kiện liên quan đến ung thư vú trong thời gian ngắn liên quan đến việc cho con bú. Những kết quả này cung cấp bằng chứng then chốt hỗ trợ việc cho con bú là một lựa chọn an toàn, trao quyền cho những phụ nữ sống sót sau bệnh ung thư vú mong muốn làm mẹ đưa ra quyết định thông thái về việc cho con bú mà không ảnh hưởng đến kết quả điều trị ung thư. Theo dõi tiếp theo sẽ làm rõ độ an toàn dài hạn và hướng dẫn thực hành trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Peccatori FA, Niman SM, Partridge AH, et al. Cho con bú sau khi mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormon: Kết quả từ Thử nghiệm POSITIVE. J Clin Oncol. 2025;43(24):2712-2719. doi:10.1200/JCO-24-02697.