Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Béo phì vẫn là thách thức sức khỏe toàn cầu lớn, góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường tuýp 2 (T2DM) và giảm chất lượng cuộc sống. Mặc dù có những tiến bộ trong can thiệp hành vi và dược lý, quản lý béo phì hiệu quả lâu dài vẫn tiếp tục là nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng. Các liệu pháp hiện tại thường yêu cầu liều dùng thường xuyên và chỉ cho thấy hiệu quả giảm cân hạn chế hoặc tác dụng phụ giới hạn. Maridebart cafraglutide (MariTide) đại diện cho một phương pháp điều trị đổi mới kết hợp giữa tác động kích thích thụ thể GLP-1 (GLP-1 RA) và đối kháng thụ thể polypeptide insulinotropic phụ thuộc glucose (GIP RA), được thiết kế như một hợp chất peptit-đặc biệt hoạt động lâu dài được tiêm một lần mỗi tháng. Việc nhắm mục tiêu kép vào các thụ thể incretin này có thể tận dụng các cơ chế tương tác ảnh hưởng đến điều hòa sự thèm ăn, tiết insulin và chuyển hóa năng lượng, có thể mang lại hiệu quả giảm cân và lợi ích chuyển hóa vượt trội hơn so với các liệu pháp đơn độc hiện nay.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này là một thử nghiệm giai đoạn 2, mù đôi, ngẫu nhiên, có nhóm đối chứng giả dược, được thiết kế để đánh giá độ an toàn, khả năng dung nạp và hiệu quả của maridebart cafraglutide trong 52 tuần. Tổng cộng 592 người tham gia đã được đăng ký và chia thành hai nhóm chính: nhóm béo phì (n=465) và nhóm béo phì kèm theo đái tháo đường tuýp 2 (n=127).
Người tham gia trong nhóm béo phì, với chỉ số BMI trung bình là 37.9 và tuổi trung bình là 47.9, được phân ngẫu nhiên vào bảy nhóm điều trị maridebart cafraglutide hoặc giả dược với tần suất liều dùng, mức liều (140, 280, 420 mg) và các chương trình tăng liều khác nhau. Nhóm béo phì-đái tháo đường, được đặc trưng bởi tuổi trung bình là 55.1 và chỉ số BMI trung bình là 36.5, được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1:1:1 vào ba liều (140, 280, 420 mg) của maridebart cafraglutide hoặc giả dược, mỗi loại được tiêm mỗi 4 tuần mà không tăng liều.
Điểm cuối hiệu quả chính là tỷ lệ thay đổi cân nặng từ cơ bản đến 52 tuần được đánh giá thông qua ước lượng chính sách điều trị, theo khung tư duy điều trị dự định. Điểm cuối phụ trong nhóm đái tháo đường bao gồm thay đổi trong hemoglobin glycated (HbA1c). Đánh giá độ an toàn bao gồm việc ghi nhận các sự cố bất lợi, tập trung vào khả năng dung nạp hệ tiêu hóa.
Kết quả chính
Maridebart cafraglutide gây ra giảm cân đáng kể trong tất cả các chế độ liều so với giả dược. Trong nhóm béo phì, giảm cân dao động từ -12.3% đến -16.2%, vượt xa nhóm giả dược -2.5% (khoảng tin cậy 95% [CI] -4.2 đến -0.7%). Chế độ liều cao nhất (420 mg mỗi 4 tuần với tăng liều) liên quan đến giảm cân trung bình lớn nhất, đạt hơn 16% sau một năm, một mức độ ý nghĩa lâm sàng hiếm khi đạt được với các liệu pháp béo phì hiện tại.
Trong nhóm béo phì-đái tháo đường, maridebart cafraglutide chứng minh giảm cân từ -8.4% đến -12.3%, so với -1.7% trong nhóm giả dược, cùng với cải thiện HbA1c đáng kể từ -1.2 đến -1.6 điểm phần trăm, so với thay đổi không đáng kể trong nhóm giả dược. Những kết quả này cho thấy lợi ích chuyển hóa kép mạnh mẽ của maridebart cafraglutide đối với cân nặng và kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân T2DM.
Độ an toàn phù hợp với các tác dụng lớp đã biết của GLP-1 RAs. Các sự cố bất lợi về tiêu hóa như buồn nôn, tiêu chảy và nôn mệt mỏi được quan sát thường xuyên nhưng nói chung là tạm thời và ít rõ rệt hơn trong các chế độ liều tăng dần và liều ban đầu thấp. Không có tín hiệu an toàn bất ngờ hoặc các sự cố bất lợi nghiêm trọng liên quan đến điều trị được báo cáo, khẳng định một hồ sơ khả năng dung nạp thuận lợi hỗ trợ việc tiêm một lần mỗi tháng.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm giai đoạn 2 MariTide cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng việc tích hợp tác động kích thích thụ thể GLP-1 với đối kháng thụ thể polypeptide insulinotropic phụ thuộc glucose có thể tăng cường đáng kể hiệu quả giảm cân và kiểm soát đường huyết so với dữ liệu lịch sử về các chất đơn trị. Mức độ giảm cân trung bình 16% là đáng chú ý và tiếp cận hoặc vượt qua mức độ giảm cân thấy được với phẫu thuật bariatric ở một số bệnh nhân, mặc dù là với một chất dược lý.
Các chuyên gia lâm sàng công nhận rằng việc tiêm maridebart cafraglutide một lần mỗi tháng tăng cường tiềm năng tuân thủ của bệnh nhân, giải quyết một rào cản lớn với các liệu pháp tiêm hàng ngày hoặc hàng tuần. Tuy nhiên, các thử nghiệm so sánh với các GLP-1 RAs đã được phê duyệt khác như semaglutide hoặc các chất đồng kích thích như tirzepatide trong một thiết lập so sánh trực tiếp là cần thiết để xác định hiệu quả và độ an toàn.
Dù có những kết quả tích cực, dân số nghiên cứu chủ yếu bao gồm người lớn trung niên với các bệnh lý kèm theo tương đối được kiểm soát; việc áp dụng cho dân số già, nhiều bệnh lý kèm theo hoặc những người mắc bệnh đái tháo đường nặng hơn đòi hỏi thận trọng. Dữ liệu an toàn dài hạn và kết quả về tim mạch là rất quan trọng trước khi áp dụng lâm sàng rộng rãi.
Kết luận
Maridebart cafraglutide một lần mỗi tháng đại diện cho một liệu pháp dược lý hứa hẹn mới trong quản lý béo phì, chứng minh giảm cân đáng kể và bền vững ở người bị béo phì, có hoặc không mắc bệnh tiểu đường tuýp 2. Lợi ích bổ sung về giảm HbA1c ở bệnh nhân đái tháo đường khẳng định tiềm năng sử dụng kép của nó. Khả năng dung nạp hệ tiêu hóa và lịch trình liều thuận tiện hỗ trợ tuân thủ của bệnh nhân. Đang chờ các thử nghiệm giai đoạn 3 xác nhận và dữ liệu an toàn dài hạn, maridebart cafraglutide có thể đáng kể nâng cao vũ khí điều trị chống béo phì, giải quyết nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng quan trọng trong dân số có nguy cơ cao.
Tài liệu tham khảo
1. Jastreboff AM, Ryan DH, Bays HE, Ebeling PR, Mackowski MG, Philipose N, Ross L, Liu Y, Burns CE, Abbasi SA, Pannacciulli N; MariTide Phase 2 Obesity Trial Investigators. Once-Monthly Maridebart Cafraglutide for the Treatment of Obesity – A Phase 2 Trial. N Engl J Med. 2025 Sep 4;393(9):843-857. doi: 10.1056/NEJMoa2504214. Epub 2025 Jun 23. PMID: 40549887.
2. Wilding JPH, Batterham RL, Calanna S, et al. Once-Weekly Semaglutide in Adults with Overweight or Obesity. N Engl J Med. 2021;384(11):989-1002.
3. Frias JP, Davies MJ, Rosenstock J, et al. Tirzepatide versus Semaglutide Once Weekly in Patients with Type 2 Diabetes. N Engl J Med. 2021;385(6):503-515.