Nhấn mạnh
• Bệnh nhân mắc ẩn lỗ chân lông (HS) có nguy cơ mắc mới trầm cảm và lo âu cao hơn đáng kể so với dân số chung.
• Nguy cơ sức khỏe tinh thần tăng cao này vẫn tồn tại bất kể phương pháp điều trị HS hay mức độ nghiêm trọng dựa trên việc nhập viện để phẫu thuật.
• Không tìm thấy nguy cơ tăng cao cho các đợt tái phát trầm cảm hoặc lo âu ở những bệnh nhân có tiền sử mắc các tình trạng này.
• Kết quả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sàng lọc và can thiệp tâm thần cho tất cả bệnh nhân HS, không chỉ những người mắc bệnh nặng.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Ẩn lỗ chân lông (HS) là một tình trạng viêm da mãn tính đặc trưng bởi các u đau, áp xe và đường rò chủ yếu ảnh hưởng đến các vùng kẽ như nách và háng. HS thường gây ra đau đớn đáng kể, sẹo, dịch hôi và suy giảm chất lượng cuộc sống. Ngoài các biểu hiện vật lý, HS ngày càng được công nhận là một bệnh lý có liên quan sâu sắc đến gánh nặng tâm xã hội, bao gồm trầm cảm và lo âu.
Các nghiên cứu trước đây đã xác định rằng bệnh nhân mắc HS có tỷ lệ mắc các rối loạn tâm thần cao hơn so với dân số chung, mặc dù mức độ mà mức độ nghiêm trọng của bệnh độc lập ảnh hưởng đến nguy cơ này chưa rõ ràng. Các rối loạn trầm cảm và lo âu đồng mắc có thể làm xấu đi kết quả của bệnh nhân thông qua việc tuân thủ điều trị kém, cô lập xã hội và tăng cường sử dụng dịch vụ y tế. Hiểu rõ các hồ sơ nguy cơ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng của HS là quan trọng để tối ưu hóa các cách tiếp cận chăm sóc tích hợp.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu quần thể dựa trên dữ liệu đăng ký quốc gia Đan Mạch kéo dài từ 1997 đến 2022. Nghiên cứu bao gồm 10.206 bệnh nhân được chẩn đoán HS tại bệnh viện, được ghép đôi theo tuổi và giới với 40.125 cá nhân không mắc HS theo tỷ lệ 1:4. Bệnh nhân được theo dõi triển vọng cho các chẩn đoán mới về trầm cảm hoặc lo âu sau ngày chỉ định.
Các yếu tố phơi nhiễm chính bao gồm HS được chẩn đoán tại bệnh viện, với mức độ nghiêm trọng của bệnh được định rõ thông qua các phương pháp điều trị nhận được (chỉ thuốc bôi, điều trị hệ thống không sinh học, sinh học hoặc không điều trị) và số lần nhập viện để phẫu thuật liên quan đến HS (được phân loại thành 0, 1, 2 hoặc 3 lần trở lên).
Kết quả chính là các chẩn đoán đầu tiên về trầm cảm hoặc lo âu (bao gồm các phân tích riêng biệt cho mỗi loại) sau khi bắt đầu. Các đợt tái phát ở những bệnh nhân có tiền sử mắc các tình trạng này cũng được xem xét. Các mô hình Cox tỷ lệ nguy cơ ước tính tỷ lệ nguy cơ (HR) đã điều chỉnh cho các yếu tố nhiễu bao gồm nhân khẩu học, biến số kinh tế-xã hội và bệnh đồng mắc.
Kết quả chính
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 38,0 tuổi với khoảng 70% đại diện nữ trong cả bệnh nhân HS và đối chứng. Trong suốt thời gian nghiên cứu, phân bố điều trị giữa các bệnh nhân HS là 12,0% chỉ dùng thuốc bôi, 55,5% điều trị hệ thống không sinh học, 6,5% sinh học và 25,9% không nhận bất kỳ điều trị cụ thể nào cho HS.
Tỷ lệ mắc mới trầm cảm và lo âu ở nhóm HS cao hơn đáng kể so với đối chứng. Tỷ lệ nguy cơ đã điều chỉnh là 1,69 (KTC 95%, 1,57-1,81; P < .001) cho trầm cảm và 1,48 (KTC 95%, 1,38-1,56; P < .001) cho lo âu, cho thấy nguy cơ tăng 69% và 48% tương ứng.
Khi phân loại theo nhóm điều trị HS, nguy cơ tăng cao vẫn tồn tại trong tất cả các nhóm. HRs cho cả trầm cảm hoặc lo âu là 1,62 (KTC 95%, 1,41-1,85) cho chỉ điều trị bôi, 1,61 (KTC 95%, 1,51-1,72) cho điều trị hệ thống không sinh học, và 1,38 (KTC 95%, 1,01-1,87) cho sinh học, cho thấy không có xu hướng rủi ro nhất quán với các dấu hiệu mức độ nghiêm trọng được giả định.
Một mẫu hình tương tự được quan sát khi phân loại theo các lần nhập viện liên quan đến phẫu thuật HS. HRs dao động từ 1,44 (không phẫu thuật) đến 1,66 (một lần phẫu thuật), 1,59 (hai lần phẫu thuật), và 1,60 (ba lần hoặc nhiều hơn), với tất cả các so sánh đều cho thấy nguy cơ tăng cao có ý nghĩa thống kê so với đối chứng.
Bệnh nhân HS cũng có tỷ lệ mắc trước đây của trầm cảm (7,0% so với 0,3%) và lo âu (5,9% so với 0,5%) cao hơn đáng kể so với đối chứng (P < .001). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ tái phát trầm cảm hoặc lo âu ở những bệnh nhân có chẩn đoán trước đó (HR 0,90 cho trầm cảm, HR 1,22 cho lo âu; cả hai đều không có ý nghĩa).
Bình luận chuyên gia
Các kết quả từ nghiên cứu quần thể Đan Mạch toàn diện này xác nhận rằng HS có liên quan mạnh mẽ với nguy cơ tăng cao của sự khởi phát mới trầm cảm và lo âu. Mẫu lớn, thiết kế dựa trên quần thể và điều chỉnh cho nhiều yếu tố nhiễu đã tăng cường độ tin cậy của các kết luận này.
Sự vắng mặt của mối quan hệ liều-đáp rõ ràng giữa mức độ nghiêm trọng của bệnh — như được suy ra từ mức độ điều trị hoặc can thiệp phẫu thuật — và nguy cơ sức khỏe tinh thần thách thức giả định rằng chỉ những bệnh nhân mắc HS nặng mới dễ bị mắc các rối loạn tâm lý đồng mắc. Điều này có thể phản ánh tác động tâm xã hội lan tỏa của thậm chí các triệu chứng HS nhẹ đến trung bình như đau mãn tính, kỳ thị và bất tiện.
Các hạn chế bao gồm việc phụ thuộc vào chẩn đoán bệnh viện dựa trên dữ liệu đăng ký, có thể bỏ sót các trường hợp tâm thần nhẹ được quản lý trong chăm sóc ban đầu, và các dấu hiệu thay thế của mức độ nghiêm trọng của bệnh thay vì các hệ thống đánh giá lâm sàng được xác thực như phân loại Hurley. Dù vậy, các thông tin của nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu nhỏ hơn trước đây liên kết HS với các rối loạn sức khỏe tinh thần.
Lâm sàng, nghiên cứu này ủng hộ việc sàng lọc tâm thần thường quy và quản lý đa ngành cho tất cả bệnh nhân HS, thay vì hạn chế sự cảnh giác về sức khỏe tâm thần chỉ cho những người mắc bệnh nặng hoặc được điều trị bằng phẫu thuật. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu nghiên cứu trong tương lai làm sáng tỏ các cơ chế sinh học và tâm xã hội liên kết viêm HS và sinh học sức khỏe tinh thần.
Kết luận
Tóm lại, bệnh nhân mắc ẩn lỗ chân lông (HS) có nguy cơ mắc mới trầm cảm và lo âu cao hơn đáng kể so với dân số chung, độc lập với các dấu hiệu mức độ nghiêm trọng của bệnh. Không có nguy cơ tăng cao về tái phát được quan sát ở những người có tiền sử mắc các rối loạn tâm thần.
Các kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng then chốt của việc tích hợp các đánh giá và can thiệp tâm thần vào quản lý HS cho tất cả bệnh nhân. Các bác sĩ nên duy trì sự cảnh giác cao về các triệu chứng sức khỏe tinh thần trong nhóm dân số này và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giới thiệu kịp thời đến các dịch vụ hỗ trợ tâm lý khi cần thiết. Nghiên cứu thêm là cần thiết để hiểu các con đường nguyên nhân và phát triển các chiến lược mục tiêu nhằm cải thiện kết quả toàn diện trong HS.
Tham khảo
Holgersen N, Rosenø NAL, Nielsen VW, et al. Nguy cơ khởi phát mới và tái phát trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân mắc ẩn lỗ chân lông. JAMA Dermatol. Được xuất bản trực tuyến ngày 30 tháng 7 năm 2025. doi:10.1001/jamadermatol.2025.2298
Garg A, et al. Rối loạn tâm thần đồng mắc trong ẩn lỗ chân lông: Một đánh giá hệ thống. J Am Acad Dermatol. 2020;82(2):381-389.
Mabrouk M, Wilken R. Triệu chứng trầm cảm và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân mắc ẩn lỗ chân lông. Int J Dermatol. 2018;57(1):28-34.
Jemec GBE. Thực hành lâm sàng. Ẩn lỗ chân lông. N Engl J Med. 2012;366(2):158-164.