Mức độ D-Dimer tăng cao: Ngoài huyết khối phổi—Các tình trạng hiếm gặp mà nhiều bác sĩ bỏ qua

Mức độ D-Dimer tăng cao: Ngoài huyết khối phổi—Các tình trạng hiếm gặp mà nhiều bác sĩ bỏ qua

Điều gì là D-Dimer?

D-dimer là một sản phẩm phân hủy đặc hiệu được tạo ra khi fibrin chéo liên kết bị phân hủy bởi plasmin trong quá trình fibrinolysis. Fibrin, một protein có trong máu, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cục máu đông. Ở người khỏe mạnh, mức độ D-dimer thấp lưu thông trong máu. Tuy nhiên, khi có sự hình thành và tan vỡ cục máu đông hoạt động trong mạch máu, mức độ D-dimer tăng lên. Mức độ D-dimer tăng cao thường đi kèm với các tình trạng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, huyết khối phổi, huyết khối tĩnh mạch, rối loạn đông máu lan tỏa (DIC), phẫu thuật, u ác tính, nhiễm trùng và hoại tử mô.

Các tình trạng dẫn đến mức độ D-Dimer tăng cao

Ngoài các tình trạng huyết khối tĩnh mạch (VTE) nổi tiếng—bao gồm huyết khối phổi cấp tính (APE), huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và huyết khối xoang tĩnh mạch não (CVST)—D-dimer cũng có thể tăng cao trong các bệnh không phải huyết khối. Những tình trạng này bao gồm bóc tách động mạch chủ cấp tính (AAD), vỡ phình động mạch, đột quỵ, DIC, nhiễm trùng huyết, hội chứng vành cấp tính (ACS) và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Ngoài ra, các yếu tố như tuổi tác cao, phẫu thuật hoặc chấn thương gần đây, và điều trị thrombolysis cũng có thể làm tăng mức độ D-dimer.

Ứng dụng lâm sàng của xét nghiệm D-Dimer

1) D-Dimer và huyết khối tĩnh mạch (VTE) và điều trị chống đông máu
VTE bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu và huyết khối phổi. Các triệu chứng điển hình của huyết khối phổi bao gồm đau ngực, ho ra máu và khó thở, nhưng bộ ba triệu chứng điển hình này không phổ biến. Chẩn đoán thường bao gồm chụp cắt lớp vi tính mạch phổi (CTPA), quét thông khí/tưới máu (V/Q), chụp cộng hưởng từ mạch phổi (MRPA) và chụp mạch phổi—phương pháp sau là tiêu chuẩn vàng nhưng ít được sử dụng do xâm lấn. Các nghiên cứu xác nhận mức độ D-dimer trong huyết tương của bệnh nhân DVT và PE cao hơn đáng kể so với người khỏe mạnh. Mức độ D-dimer tăng lên theo tuổi, đòi hỏi ngưỡng điều chỉnh theo tuổi: 500 μg/L cho những người dưới 50 tuổi và 5000 μg/L cho những người trên 50 tuổi. Các hệ thống đánh giá lâm sàng như Wells và Geneva giúp tinh chỉnh phân loại rủi ro và sử dụng ngưỡng. Kết quả D-dimer dương tính ở bệnh nhân VTE liên quan đến tỷ lệ tái phát cao hơn, đặc biệt là ở nam giới, và ảnh hưởng đến quyết định về thời gian điều trị chống đông máu.

2) D-Dimer và rối loạn đông máu lan tỏa (DIC)
DIC là một tình trạng chảy máu phức tạp do các yếu tố khác nhau gây ra sự đông máu và chảy máu rộng rãi. Mức độ D-dimer tăng đáng kể sớm trong DIC và có thể tăng gấp mười đến một trăm lần khi bệnh tiến triển. D-dimer và các sản phẩm phân hủy fibrin là các chỉ số quan trọng trong chẩn đoán DIC theo hướng dẫn quốc tế.

3) D-Dimer và các bệnh tim mạch
Mức độ D-dimer tăng cao được thấy trong rung nhĩ, đột quỵ và ngừng tim. Các nghiên cứu liên kết mức độ D-dimer cao hơn với nguy cơ tử vong tim mạch cao hơn và thể tích đột quỵ lớn hơn. Các nghiên cứu theo dõi ở nam giới lớn tuổi mắc rung nhĩ cho thấy mức độ D-dimer tăng cao dự đoán sự xuất hiện của đột quỵ. Hơn nữa, D-dimer phục vụ như một chỉ số tiên lượng cho kết quả xấu và tử vong sau ngừng tim.

4) D-Dimer và u ác tính
Bệnh nhân ung thư thường có mức độ D-dimer tăng cao do sự kích hoạt hệ thống đông máu và fibrinolysis liên quan đến u, gắn liền với xâm lấn và di căn u. Sự tăng cao đáng kể của D-dimer mà không có các triệu chứng điển hình nên khiến nghĩ đến khả năng có u ác tính tiềm ẩn sau khi loại trừ các nguyên nhân khác. Các nghiên cứu triển vọng cho thấy xét nghiệm kết hợp D-dimer và protein phản ứng C nhạy cảm cao có thể hướng dẫn thời gian điều trị chống đông máu tối ưu trong huyết khối liên quan đến ung thư.

5) D-Dimer và thai kỳ
Khoảng 26,7% phụ nữ mang thai có mức độ D-dimer tăng nhẹ, đạt đỉnh vào tam cá nguyệt thứ ba và trở lại bình thường sau sinh. Các thai kỳ bị biến chứng bởi các rối loạn huyết áp, tiền sản giật hoặc tiểu đường thai kỳ có mức độ D-dimer cao hơn đáng kể. Mức độ D-dimer tăng cao tương quan với mức độ nghiêm trọng của tiền sản giật và có thể dự đoán các rủi ro như sinh non và thai kỳ kéo dài. Nó cũng cho thấy tương quan với tỷ lệ thất bại của thụ tinh trong ống nghiệm.

6) D-Dimer và COVID-19
Trong COVID-19, giai đoạn đầu thường có số lượng bạch cầu bình thường hoặc giảm và giảm bạch cầu lympho. Một số bệnh nhân có mức độ enzym gan, lactate dehydrogenase, enzym cơ và myoglobin tăng cao. Bệnh nhân nặng thường có mức độ troponin và các chỉ số viêm tăng cao. Mức độ D-dimer tăng cao và giảm bạch cầu lympho tiến triển là phổ biến trong các trường hợp nặng, phản ánh tình trạng hypercoagulability và viêm.

7) D-Dimer trong bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh thận do tiểu đường
Cả hai tình trạng đều có mức độ D-dimer tăng cao đáng kể, với bệnh nhân bệnh thận do tiểu đường có fibrinogen và D-dimer cao hơn so với những người chỉ mắc tiểu đường. Tiến triển của bệnh trực tiếp ảnh hưởng đến các chỉ số đông máu này, làm cho D-dimer trở thành một chỉ số hữu ích để đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh.

8) D-Dimer và viêm phổi do Mycoplasma (MPP)
Viêm phổi nặng do Mycoplasma thường có mức độ D-dimer tăng cao, đáng kể hơn trong các trường hợp nặng. Nhiễm trùng nặng có thể gây ra thiếu oxy cục bộ, thiếu máu và axit hóa, làm tổn thương tế bào nội mạc mạch máu và phơi bày collagen, kích hoạt hệ thống đông máu và tạo ra tình trạng hypercoagulability với sự hình thành microthrombi. Sự kích hoạt đồng thời của hệ thống fibrinolysis, kinin và bổ thể dẫn đến tăng D-dimer.

9) D-Dimer và bệnh Purpura Hennesch-Schönlein (HSP)
HSP cấp tính liên quan đến tình trạng hypercoagulability và tăng cường chức năng tiểu cầu, gây co thắt mạch máu, tập trung tiểu cầu và huyết khối. Mức độ D-dimer tăng cao thường xuất hiện sau hai tuần kể từ khi khởi phát và thay đổi tùy theo giai đoạn lâm sàng, phản ánh viêm mạch máu toàn thân. Mức độ D-dimer cao kéo dài dự đoán tiên lượng xấu và tổn thương thận.

10) D-Dimer và lupus ban đỏ hệ thống (SLE)
Bệnh nhân SLE trải qua các bất thường về đông máu-fibrinolysis, rõ ràng hơn trong giai đoạn hoạt động, tăng nguy cơ huyết khối. Mức độ D-dimer cao đáng kể trong các giai đoạn hoạt động so với giai đoạn thuyên giảm, phục vụ như một chỉ số của hoạt động bệnh.

Giải thích kết quả D-Dimer dương tính

Kết quả D-dimer dương tính cho thấy mức độ sản phẩm phân hủy fibrin chéo liên kết bất thường cao trong cơ thể, báo hiệu sự hình thành và tan vỡ cục máu đông đáng kể. Tuy nhiên, nó không chỉ ra vị trí hoặc nguyên nhân của cục máu đông. Mức độ D-dimer tăng cao có thể do VTE hoặc DIC nhưng cũng có thể xuất hiện từ phẫu thuật gần đây, chấn thương, nhiễm trùng, bệnh gan, thai kỳ, cơn động kinh, bệnh tim, và một số loại ung thư.

Hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng của xét nghiệm D-Dimer

Mặc dù hữu ích như một xét nghiệm phụ trợ, D-dimer không nên là tiêu chí duy nhất để chẩn đoán bệnh, đặc biệt là DVT và PE. Điều trị chống đông máu có thể gây ra kết quả âm tính giả. Mức độ D-dimer tăng cao là phổ biến ở người già và có thể cho kết quả dương tính giả ở bệnh nhân có yếu tố thấp khớp tăng cao. Các yếu tố khác như tăng triglyceride, lipemia, bilirubin và thu thập hoặc xử lý mẫu không đúng cách gây hemolysis cũng có thể tạo ra kết quả dương tính giả.

Kết luận

D-dimer là một chỉ số sinh học quý giá phản ánh hoạt động đông máu và fibrinolysis, hỗ trợ trong việc chẩn đoán và quản lý nhiều tình trạng huyết khối và không phải huyết khối. Giải thích chính xác đòi hỏi xem xét bối cảnh lâm sàng, tuổi của bệnh nhân và các yếu tố nhiễu tiềm ẩn để tối ưu hóa chăm sóc và kết quả điều trị cho bệnh nhân.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *