Thời gian Quan trọng: Xác định Thời gian Tập luyện Giám sát Tối ưu để Cải thiện Có ý nghĩa trong Bệnh động mạch ngoại biên

Thời gian Quan trọng: Xác định Thời gian Tập luyện Giám sát Tối ưu để Cải thiện Có ý nghĩa trong Bệnh động mạch ngoại biên

Nổi bật

  • Tập luyện đi bộ có giám sát trong bệnh động mạch ngoại biên (PAD) dẫn đến cải thiện đáng kể về khoảng cách đi bộ có thể phát hiện sau hơn 6 tuần can thiệp.
  • Đến 12 tuần, bệnh nhân đạt được những cải thiện lâm sàng có ý nghĩa lớn về khoảng cách đi bộ 6 phút và khả năng đi bộ tự báo cáo.
  • Cải thiện về khả năng đi bộ tự báo cáo đạt đỉnh ở 12 tuần nhưng không duy trì ở 26 tuần mặc dù tiếp tục tập luyện.
  • Các kết quả này cung cấp những hiểu biết quan trọng để tối ưu hóa thời gian và kỳ vọng của các chương trình phục hồi chức năng bằng tập luyện trong quản lý PAD.

Nền tảng Nghiên cứu và Gánh nặng Bệnh

Bệnh động mạch ngoại biên (PAD) ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới, đặc trưng bởi sự tắc nghẽn động mạch chi dưới do xơ vữa động mạch. Tình trạng này dẫn đến thiếu máu cơ chân khi gắng sức, gây ra đau chân, suy giảm chức năng và giảm chất lượng cuộc sống. Hạn chế đi bộ là một trong những triệu chứng gây khuyết tật nhất và là dự báo mạnh mẽ về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở bệnh nhân PAD. Tập luyện đi bộ có giám sát là nền tảng của liệu pháp không xâm lấn, đã được chứng minh là cải thiện khoảng cách đi bộ và khả năng chức năng ở nhóm dân số này. Tuy nhiên, thời gian mà những lợi ích này xuất hiện và đạt được ý nghĩa lâm sàng chưa được xác định rõ ràng, làm hạn chế việc thiết kế chương trình tối ưu và tư vấn cho bệnh nhân. Hiểu rõ thời gian hiệu quả tối thiểu của tập luyện có giám sát cần thiết để đạt được cải thiện lâm sàng có ý nghĩa có thể nâng cao việc phân bổ nguồn lực và chiến lược tuân thủ. Nghiên cứu của McDermott et al. giải quyết khoảng trống này bằng cách đánh giá kỹ lưỡng quá trình cải thiện trong kết quả đi bộ khách quan và tự báo cáo trong suốt thời gian can thiệp 6 tháng.

Thiết kế Nghiên cứu

Nghiên cứu ngẫu nhiên kiểm soát này tuyển dụng 210 người tham gia khoảng 67 tuổi với xác nhận bệnh động mạch chi dưới PAD. Đội ngũ nghiên cứu có sự đại diện đáng kể của phụ nữ (39%) và người da đen (66%), tăng cường tính tổng quát. Người tham gia được ngẫu nhiên phân chia thành hai nhóm: tập luyện đi bộ có giám sát ba lần mỗi tuần hoặc nhóm đối chứng không tập luyện trong 6 tháng. Điểm cuối chính là khoảng cách đi bộ 6 phút, với sự khác biệt lâm sàng quan trọng (CID) là 20 mét, và điểm khoảng cách của Khảo sát Khả năng Đi bộ (WIQ) (độ đo từ 0–100, với 5 điểm đại diện cho CID). Kết quả được đánh giá tại 6, 12 và 26 tuần sử dụng các mô hình hiệu ứng hỗn hợp phù hợp cho các phép đo lặp lại.

Kết quả Chính

Thử nghiệm quan sát được tỷ lệ hoàn thành theo dõi xuất sắc với 95% người tham gia tham dự ít nhất một lần theo dõi. So với nhóm đối chứng, tập luyện có giám sát đã thể hiện:

– Cải thiện 13.0 mét trong khoảng cách đi bộ 6 phút tại 6 tuần (P=0.049), không đạt được sự khác biệt lâm sàng quan trọng 20 mét đã định trước.
– Đến 12 tuần, đạt được cải thiện có ý nghĩa lâm sàng và lớn 31.8 mét (P<0.001), duy trì qua 26 tuần (33.9 mét; P<0.001).

Tương tự, khả năng đi bộ tự báo cáo thông qua điểm khoảng cách của WIQ cho thấy:

– Không có cải thiện đáng kể tại 6 tuần (+2.63 điểm; P=0.37).
– Cải thiện có ý nghĩa thống kê và lâm sàng tại 12 tuần (+6.59 điểm; P=0.049).
– Đến 26 tuần, điểm WIQ cải thiện đã giảm và không còn có ý nghĩa thống kê (+2.37 điểm; P=0.49).

Các kết quả này nhấn mạnh phản ứng chậm nhưng có ý nghĩa đối với tập luyện có giám sát, với sự cải thiện về khả năng đi bộ do bệnh nhân cảm nhận cải thiện muộn và duy trì không nhất quán theo thời gian mặc dù tiếp tục can thiệp.

Bình luận Chuyên gia

Nghiên cứu này củng cố sự cần thiết phải tham gia liên tục vào tập luyện có cấu trúc để đạt được lợi ích tối đa trong PAD. Bác sĩ nên thông báo cho bệnh nhân rằng cải thiện đáng kể về chức năng đi bộ thường yêu cầu ít nhất 6 đến 12 tuần cam kết tập luyện đi bộ có giám sát. Sự giảm dần của các kết quả tự báo cáo tại 26 tuần có thể phản ánh sự thích nghi, yếu tố động lực hoặc sự biến đổi trong đo lường, đề xuất rằng hỗ trợ hành vi hoặc tâm lý bổ sung có thể cần thiết để duy trì nhận thức lâu dài về lợi ích. Ngoài ra, mặc dù những cải thiện về khoảng cách đi bộ khách quan vẫn tồn tại, tích hợp các phương pháp phục hồi chức năng đa mặt giải quyết các yếu tố khác gây ra khuyết tật liên quan đến PAD có thể duy trì tốt hơn các cải thiện chức năng toàn diện.

Kết luận

Tập luyện đi bộ có giám sát cho PAD yêu cầu hơn 6 tuần để đạt được cải thiện đáng kể về khả năng đi bộ, với lợi ích do bệnh nhân cảm nhận cao nhất xuất hiện quanh 12 tuần. Các kết quả này giúp đặt ra thời gian thực tế và củng cố tầm quan trọng của tuân thủ các chương trình tập luyện. Nghiên cứu trong tương lai nên khám phá các chiến lược để duy trì lợi ích do bệnh nhân báo cáo sau 6 tháng và tối ưu hóa các can thiệp đa lĩnh vực để cải thiện kết quả dài hạn trong dân số có nguy cơ cao này.

Tài liệu Tham khảo

1. McDermott MM, Zhang D, Zhao L, Polonsky T, Ferrucci L, Ho KJ, Kibbe MR, Guralnik JM, Criqui MH, Tian L. Duration of Supervised Exercise Necessary for Meaningful Improvement in Peripheral Artery Disease. J Am Heart Assoc. 2025 Sep 5:e040058. doi: 10.1161/JAHA.124.040058.
2. Stewart KJ, Hiatt WR, Regensteiner JG, Hirsch AT. Exercise training for claudication. N Engl J Med. 2002 Mar 28;346(8):699-706.
3. Gardner AW, Montgomery PS. Role of exercise rehabilitation in peripheral artery disease. Curr Treat Options Cardiovasc Med. 2011 Apr;13(2):116-21.
4. Fokkenrood HJ, Bendermacher BL, Lauret GJ, Willigendael EM, Teijink JA. Supervised exercise therapy versus non-supervised exercise therapy for intermittent claudication. Cochrane Database Syst Rev. 2013 Aug 30;(8):CD005263.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *