Giảm tiếp xúc bức xạ của người điều hành trong can thiệp tim mạch: Những hiểu biết từ nghiên cứu HARRA so sánh phương pháp động mạch quay tay trái với tay phải

Giảm tiếp xúc bức xạ của người điều hành trong can thiệp tim mạch: Những hiểu biết từ nghiên cứu HARRA so sánh phương pháp động mạch quay tay trái với tay phải

Nổi bật

Thử nghiệm ngẫu nhiên HARRA tiết lộ rằng phương pháp động mạch quay tay trái (LRA) giảm đáng kể tiếp xúc bức xạ của người điều hành đến ngực, bụng và mắt so với phương pháp động mạch quay tay phải được co lại quá mức (HARRA) trong can thiệp chẩn đoán tim mạch. Kết quả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn vị trí tiếp cận để giảm thiểu nguy cơ bức xạ nghề nghiệp cho các bác sĩ can thiệp tim mạch.

Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật

Tiếp xúc bức xạ nghề nghiệp vẫn là một mối đe dọa đáng kể và có hại cho các bác sĩ can thiệp tim mạch thực hiện các can thiệp chẩn đoán và điều trị. Tiếp xúc kéo dài hoặc lặp đi lặp lại với bức xạ ion hóa có thể tăng nguy cơ mắc bệnh đục thủy tinh thể, ung thư và các tổn thương do bức xạ khác. Mặc dù tiếp cận động mạch quay tay cho các thủ thuật mạch vành đã trở thành tiêu chuẩn thực hành do lợi ích lâm sàng và sự thoải mái của bệnh nhân, liều lượng bức xạ của người điều hành có thể thay đổi dựa trên cổ tay quay tay nào được sử dụng và vị trí cánh tay. Phương pháp động mạch quay tay trái (LRA) và phương pháp động mạch quay tay phải (RRA) với co lại quá mức (HARRA) thường được sử dụng; tuy nhiên, dữ liệu so sánh về tiếp xúc bức xạ của người điều hành giữa các phương pháp này vẫn còn thiếu. Thử nghiệm này giải quyết một khoảng trống quan trọng về an toàn nghề nghiệp bằng cách điều tra tiếp xúc bức xạ thời gian thực đến các vị trí giải phẫu chính của người điều hành trong can thiệp chẩn đoán tim mạch.

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu HARRA là một thử nghiệm ngẫu nhiên kiểm soát đơn trung tâm với 534 bệnh nhân được chỉ định cho can thiệp chẩn đoán tim mạch theo lịch. Người tham gia được ngẫu nhiên hóa để tiếp cận động mạch qua động mạch quay tay trái (LRA, n=269) hoặc động mạch quay tay phải được co lại quá mức (HARRA, n=265). Tiêu chí bao gồm nhắm vào các trường hợp lịch thích hợp cho cả hai vị trí tiếp cận. Các thiết bị đo liều bức xạ thời gian thực được gắn vào bốn vị trí của người điều hành: ngực, bụng, mắt trái và mắt phải, cho phép đo liều bức xạ tích lũy và chuẩn hóa trong quá trình thực hiện. Điểm kết thúc chính là tiếp xúc bức xạ tích lũy và tiếp xúc bức xạ chuẩn hóa theo sản phẩm diện tích liều (DAP) của bệnh nhân tại bốn vị trí giải phẫu này. Các biến phụ bao gồm đặc điểm của bệnh nhân, các yếu tố giải phẫu như độ uốn khúc động mạch nách, sử dụng catheter, thời gian fluoroscopy và các chỉ số quy trình.

Kết quả chính

Đặc điểm cơ bản cho thấy tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường, đã từng chụp mạch vành và sử dụng tiếp cận động mạch quay tay xa nhiều hơn ở nhóm LRA, trong khi nhóm HARRA có độ uốn khúc động mạch nách đáng kể hơn. Sử dụng catheter cao hơn ở nhóm LRA. Dù có những sự khác biệt này, các biến liên quan đến quy trình như DAP, thời gian fluoroscopy và thể tích thuốc cản quang là tương đương giữa các nhóm.

Tiếp xúc bức xạ tích lũy thấp hơn đáng kể ở nhóm LRA tại tất cả các vị trí được đo: ngực (9.66±8.57 μSv so với 12.27±7.09 μSv; P<0.001), bụng (27.46±21.20 μSv so với 36.56±23.72 μSv; P<0.001), mắt trái (2.65±2.59 μSv so với 3.77±2.67 μSv; P<0.001) và mắt phải (1.13±1.69 μSv so với 1.44±1.62 μSv; P=0.01). Tiếp xúc bức xạ chuẩn hóa theo DAP cũng ưu tiên phương pháp LRA với các giá trị thấp hơn đáng kể tại tất cả các vị trí ngoại trừ mắt phải.

Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến xác định phương pháp HARRA có liên quan đáng kể với việc tăng tiếp xúc bức xạ tại tất cả các vị trí giải phẫu (tất cả P<0.001). Độ uốn khúc động mạch nách đóng góp độc lập vào việc tăng liều lượng bức xạ ngực. Tiếp cận động mạch quay tay xa liên quan với việc giảm tiếp xúc bức xạ bụng, trong khi việc sử dụng catheter tăng cao làm tăng liều lượng bức xạ tại ngực và mắt.

Quan trọng là, các chỉ số phức tạp của quy trình như thời gian fluoroscopy, số lượng phim chụp mạch và thể tích thuốc cản quang không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm, cho thấy các yếu tố vị trí liên quan đến vị trí tiếp cận chủ yếu gây ra sự khác biệt về tiếp xúc bức xạ.

Bình luận chuyên gia

Thử nghiệm được thiết kế một cách nghiêm ngặt này cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng tiếp xúc bức xạ của các bác sĩ can thiệp tim mạch trong can thiệp chẩn đoán tim mạch khác nhau tùy theo vị trí tiếp cận động mạch và vị trí cánh tay. Sự giảm đáng kể liều lượng của người điều hành với phương pháp LRA có thể phản ánh một hình học thuận lợi giảm bức xạ tán xạ, đặc biệt là do đường dẫn catheter trực tiếp hơn và ít gặp độ uốn khúc động mạch nách hơn.

Kết quả phù hợp với nguyên lý vật lý bức xạ, nơi vị trí cánh tay và bàn tay ảnh hưởng đến môi trường tán xạ và hướng của tia bức xạ. Việc sử dụng đo liều bức xạ thời gian thực tại nhiều vị trí giải phẫu tăng cường sự tự tin trong đánh giá tiếp xúc và nhấn mạnh rủi ro nghề nghiệp đặc biệt đối với các vùng nhạy cảm bức xạ như mắt.

Mặc dù tiếp cận động mạch quay tay xa liên quan với việc giảm tiếp xúc bức xạ bụng, việc tích hợp phương pháp này vào thực hành tiêu chuẩn cần được khám phá thêm, đặc biệt là về khả năng thực hiện quy trình và kết quả của bệnh nhân.

Hạn chế bao gồm thiết kế đơn trung tâm, khả năng chuyển đổi và mất cân đối cơ bản giữa các nhóm đã được điều chỉnh thống kê nhưng có thể mang theo sự nhiễu loạn dư. Tuy nhiên, dữ liệu này củng cố các tuyên bố hướng dẫn hiện tại ủng hộ LRA là vị trí tiếp cận động mạch quay tay ưa thích khi có thể.

Kết luận

Nghiên cứu HARRA chứng minh rõ ràng rằng phương pháp động mạch quay tay trái giảm đáng kể tiếp xúc bức xạ của người điều hành tại các vị trí giải phẫu quan trọng so với phương pháp động mạch quay tay phải được co lại quá mức trong can thiệp chẩn đoán tim mạch. Với các rủi ro tích lũy của bức xạ nghề nghiệp, các bác sĩ can thiệp tim mạch nên ưu tiên xem xét phương pháp LRA để giảm liều lượng bức xạ và tăng cường an toàn lâu dài cho người điều hành. Nghiên cứu trong tương lai có thể khám phá tác động của tiếp cận động mạch quay tay xa và các cải tiến công nghệ trong bảo vệ bức xạ để giảm thiểu thêm rủi ro tiếp xúc.

Tham khảo

Casazza R, Malik B, Hashmi A, Fogel J, Montagna E, Frankel R, et al. So sánh tiếp xúc bức xạ của người điều hành giữa phương pháp động mạch quay tay trái và động mạch quay tay phải được co lại quá mức: Nghiên cứu HARRA. Circ Cardiovasc Interv. 2025 Apr;18(4):e014602. doi: 10.1161/CIRCINTERVENTIONS.124.014602. Epub 2025 Mar 19. PMID: 40104858; PMCID: PMC11995851.

Valgimigli M, Gagnor A, Calabrò P, Frigoli E, Leonardi S, et al. Tiếp cận động mạch quay tay so với tiếp cận động mạch đùi ở bệnh nhân mắc hội chứng mạch vành cấp tính đang được quản lý xâm lấn: Một thử nghiệm ngẫu nhiên đa trung tâm. Lancet. 2015;385(9986):2465–2476.

Lee MS, Agrawal N, Patel TM. Tiếp xúc bức xạ của người điều hành trong can thiệp tim mạch: Các kỹ thuật để giảm thiểu rủi ro. Methodist Debakey Cardiovasc J. 2016;12(2):84–89.

Klein LW, Miller DL, Balter S, Laskey W, Haines DE, et al. Nguy cơ sức khỏe nghề nghiệp trong phòng can thiệp: Thời điểm cho một môi trường an toàn hơn. Radiology. 2009;250(2):538–544.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *