Nền tảng Nghiên cứu và Gánh nặng Bệnh tật
Ung thư họng đại diện cho một tập hợp quan trọng của các u biểu mô tế bào vảy đầu cổ, với bệnh ở giai đoạn sớm (giai đoạn lâm sàng T1-2N0M0/Tis) thường có thể điều trị khỏi. Họng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo âm, bảo vệ đường thở và nuốt, do đó việc bảo tồn chức năng của nó là mục tiêu điều trị trung tâm. Liệu pháp hiện tại cho ung thư họng giai đoạn sớm hoặc tại chỗ không có sự tham gia của hạch hay di căn xa là xạ trị họng toàn phần (WLRT). WLRT thường chiếu xạ toàn bộ họng để quản lý sự phát triển vi mô của bệnh vượt quá dây thanh âm nhìn thấy được. Các phương pháp phẫu thuật vi phẫu, trái lại, tập trung hơn, chỉ loại bỏ dây thanh âm bị u xâm lấn với biên giới hẹp. Xạ trị họng một phần (PLRT), nhắm vào chỉ dây thanh âm bị u xâm lấn và các mô kề cận, đã được đề xuất như một lựa chọn ít độc hại hơn nhưng hiệu quả và an toàn dài hạn chưa được đánh giá đầy đủ. Khoảng cách này đặt ra nhu cầu lâm sàng chưa được đáp ứng để đánh giá liệu PLRT có thể đạt được kiểm soát u tương đương với độc tính giảm.
Thiết kế Nghiên cứu
Bài báo này báo cáo một nghiên cứu đội ngũ quay ngược được thực hiện tại một tổ chức y tế thứ ba, phân tích 233 bệnh nhân liên tiếp được chẩn đoán mắc u biểu mô tế bào vảy họng giai đoạn lâm sàng T1-2N0M0 hoặc Tis. Những bệnh nhân này đã trải qua xạ trị cường độ điều chỉnh (IMRT), một kỹ thuật xạ trị hiện đại cho phép giao phối liều, từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2024. Trong số họ, 176 bệnh nhân nhận WLRT và 57 được điều trị bằng PLRT. Dữ liệu lâm sàng được trích xuất và phân tích từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2025.
Các điểm kết thúc chính được đánh giá bao gồm kiểm soát địa phương khu vực dài hạn, tỷ lệ sống sót không phải cắt bỏ họng, tỷ lệ sống sót không di căn xa và tỷ lệ sống sót tổng thể. Độc tính liên quan đến xạ trị cả cấp độ và muộn được ghi nhận và đánh giá theo Tiêu chuẩn chung về Từ ngữ Sự kiện bất lợi (CTCAE) phiên bản 4.0. Chất lượng cuộc sống liên quan đến nuốt được đánh giá thông qua Khảo sát Khó nuốt MD Anderson, thu thập trong các lần thăm khám theo dõi khi có thể.
Kết quả Chính
Theo dõi trung bình đáng kể khác nhau giữa các nhóm: 60 tháng (khoảng tứ phân vị [IQR], 28-87) cho WLRT và 31 tháng (IQR, 16-64) cho PLRT. Sự khác biệt này ảnh hưởng đến sức mạnh so sánh của các đánh giá kết quả dài hạn.
Không có sự khác biệt thống kê hoặc lâm sàng có ý nghĩa giữa PLRT và WLRT trong các kết quả hiệu quả chính sau 3 năm:
– Kiểm soát địa phương khu vực là 85.4% trong nhóm PLRT so với 90.8% với WLRT (sự chênh lệch tỷ lệ -5.4%; khoảng tin cậy 95%, -13.5% đến 6.9%).
– Tỷ lệ sống sót không phải cắt bỏ họng là 93.2% trong PLRT so với 94.0% trong WLRT (sự chênh lệch tỷ lệ -0.8%; khoảng tin cậy 95%, -9.1% đến 7.5%).
– Tỷ lệ sống sót không di căn xa là 100% trong PLRT và 97.6% trong WLRT (sự chênh lệch tỷ lệ 2.4%; khoảng tin cậy 95%, -0.3% đến 4.9%).
– Tỷ lệ sống sót tổng thể tương tự, 91.4% với PLRT so với 88.9% cho WLRT (sự chênh lệch tỷ lệ 2.5%; khoảng tin cậy 95%, -6.8% đến 12.8%).
Đáng chú ý, không có trường hợp nào của sự thất bại của dây thanh âm đối bên xảy ra trong nhóm PLRT.
Tuy nhiên, phân tích phân tầng tiết lộ sự khác biệt đáng kể về kiểm soát địa phương khu vực cho các khối u T2 có lợi cho WLRT (85.1%) so với PLRT (66.7%), mặc dù khoảng tin cậy từ -5.8% đến 21.3%, cho thấy sự không chắc chắn.
Về độc tính, PLRT liên quan đến tỷ lệ mắc khó nuốt cấp độ thấp hơn đáng kể (73.7%) so với WLRT (92.6%); sự chênh lệch tuyệt đối là 18.9% (khoảng tin cậy 95%, 6.9% đến 30.9%). Chất lượng cuộc sống liên quan đến nuốt, được đánh giá bằng điểm tổng hợp Khảo sát Khó nuốt MD Anderson, nói chung cao hơn trong nhóm PLRT sau 3 và 6 tháng điều trị (86 so với 77 sau 3 tháng; sự chênh lệch 8 điểm; khoảng tin cậy 95%, 2 đến 14; và 96 so với 81 sau 6 tháng; sự chênh lệch 4 điểm; khoảng tin cậy 95%, -2 đến 8), mặc dù những sự khác biệt này có thể không đạt đến ý nghĩa lâm sàng.
Bình luận Chuyên gia
Nghiên cứu này cung cấp dữ liệu so sánh quan trọng cho thấy xạ trị họng một phần có thể đạt được kiểm soát địa phương khu vực và tỷ lệ sống sót tương đương với xạ trị họng toàn phần trong ung thư họng giai đoạn sớm T1 và Tis, với lợi ích tiềm năng của việc giảm độc tính cấp độ và cải thiện chất lượng cuộc sống liên quan đến nuốt sớm. Sự vắng mặt của các trường hợp thất bại của dây thanh âm đối bên trong nhóm PLRT đảm bảo về sự đủ của vùng xạ trị giảm ở các bệnh nhân được chọn.
Tuy nhiên, thời gian theo dõi trung bình ngắn hơn cho nhóm PLRT hạn chế kết luận về kiểm soát u dài hạn và độc tính muộn, những yếu tố quan trọng đối với việc bảo tồn chức năng và chất lượng cuộc sống tổng thể. Sự kiểm soát địa phương khu vực thấp hơn được quan sát trong các khối u T2 với PLRT cho thấy có thể cần chiếu xạ rộng hơn cho các khối u lớn hơn, nhấn mạnh tầm quan trọng của giai đoạn u trong việc tùy chỉnh điều trị.
Thiết kế quay ngược, thiếu ngẫu nhiên hóa và vắng mặt của việc điều chỉnh các yếu tố nhiễu như đặc điểm u, bệnh kèm theo và biến đổi điều trị cũng làm giảm sức mạnh của những kết quả này. Các thử nghiệm ngẫu nhiên hóa triển vọng là cần thiết để xác minh hiệu quả và an toàn của PLRT và để xác định tiêu chí chọn bệnh nhân chính xác hơn.
Từ góc độ sinh học, việc giảm thể tích chiếu xạ trong PLRT lý thuyết tiết kiệm các cấu trúc họng không bị xâm lấn, bảo tồn tính toàn vẹn niêm mạc và cơ, giải thích cho tỷ lệ mắc khó nuốt cấp độ thấp hơn. Điều này phù hợp với xu hướng ngày càng tăng trong xạ trị học hướng đến các chiến lược giảm độc tính nhằm tối thiểu hóa độc tính mà không làm giảm kiểm soát u.
Kết luận
Xạ trị họng một phần là một cách tiếp cận hứa hẹn cho các bệnh nhân được chọn có ung thư họng giai đoạn sớm T1 hoặc tại chỗ, mang lại tỷ lệ kiểm soát địa phương khu vực và tỷ lệ sống sót 3 năm tương đương so với xạ trị họng toàn phần hiện tại. Khả năng giảm độc tính cấp độ và cải thiện các kết quả chức năng như chất lượng cuộc sống liên quan đến nuốt gợi ý những lợi ích lâm sàng có ý nghĩa. Tuy nhiên, dựa trên đội ngũ quay ngược này, sự không chắc chắn vẫn còn do thời gian theo dõi hạn chế trong nhóm PLRT và khả năng thiên lệch chọn lọc.
Cho đến khi có thêm dữ liệu triển vọng, cần thận trọng khi xem xét PLRT, đặc biệt là cho các khối u T2, nơi WLRT có thể cung cấp kiểm soát u tốt hơn. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các thử nghiệm ngẫu nhiên hóa kiểm soát với tiêu chuẩn hóa giai đoạn u, chọn bệnh nhân và các điểm kết thúc an toàn và hiệu quả dài hạn toàn diện.
Tài liệu tham khảo
Treechairusame T, Dee EC, Cao C, Wu Y, Yu Y, Gelblum D, Riaz N, McBride SM, Chen L, Shamseddine A, Zakeri K, Tsai CJ, Kang JJ, Ganly I, Cracchiolo JR, Patel S, Cohen MA, Wong RJ, Lee NY. Partial vs Whole Laryngeal Radiotherapy for Clinical Stage T1-2N0M0/Tis Laryngeal Carcinoma. JAMA Otolaryngol Head Neck Surg. 2025 Oct 2:e253214. doi:10.1001/jamaoto.2025.3214. Epub ahead of print. PMID: 41037280; PMCID: PMC12492294.