Nổi bật
- Sinh non liên quan đến nguy cơ tăng nhẹ không hoàn thành trung học phổ thông và có bằng đại học.
- Các yếu tố xã hội như giới tính, trình độ giáo dục của mẹ, địa vị kinh tế-xã hội và tình trạng di cư có ảnh hưởng lớn hơn đến trình độ giáo dục so với việc sinh non.
- Mối liên hệ giữa tuổi thai và kết quả giáo dục thể hiện một mô hình liều lượng-đáp ứng, với những người sinh cực kỳ non có nguy cơ cao nhất.
- Các can thiệp sớm và hệ thống hỗ trợ dài hạn là cần thiết để cải thiện hành trình giáo dục cho những người sinh non và gia đình họ.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Sinh non, được định nghĩa là sinh trước 37 tuần thai, là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng trên toàn thế giới, chiếm khoảng 10% số ca sinh sống toàn cầu. Những tiến bộ trong chăm sóc sơ sinh đã tăng tỷ lệ sống sót cho trẻ sinh non, bao gồm cả những trẻ sinh cực kỳ non (<28 tuần). Tuy nhiên, sinh non liên quan đến các biến chứng phát triển thần kinh có thể biểu hiện dưới dạng các thách thức nhận thức, hành vi và học thuật kéo dài đến tuổi trưởng thành. Mặc dù đã công nhận các di chứng phát triển thần kinh này, dữ liệu dân số quy mô lớn làm sáng tỏ kết quả giáo dục dài hạn của những người sinh non vẫn còn hiếm. Hiểu cách sinh non tương tác với các yếu tố xã hội là quan trọng để cung cấp thông tin cho các can thiệp và chính sách nhằm giảm thiểu các hành trình giáo dục tiêu cực và tối ưu hóa kết quả suốt đời cho quần thể ngày càng tăng này.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đối chứng này phân tích một đội ngũ sinh toàn diện từ Quebec, Canada, bao gồm những người sinh từ năm 1976 đến 1995. Đội ngũ bao gồm tất cả trẻ sơ sinh sinh non—được phân loại là sinh cực kỳ non (<28 tuần), sinh rất non (28 đến <32 tuần), và sinh vừa phải đến muộn (32 đến <37 tuần)—được ghép cặp theo tỷ lệ 1:2 với nhóm đối chứng sinh đủ tháng (37 đến 42 tuần thai). Nhóm đối chứng được ghép cặp theo năm sinh, giới tính, và loại thai kỳ (đơn hoặc song thai). Dữ liệu được thu thập theo chiều dọc thông qua các cơ sở dữ liệu quản lý liên kết hồ sơ sinh với kết quả giáo dục từ Bộ Giáo dục Quebec và các đăng ký tử vong, cho phép theo dõi đến tuổi 43. Những người chết trước năm 2019 hoặc thiếu hồ sơ giáo dục bị loại trừ để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác theo chiều dọc của dữ liệu.
Biến phơi nhiễm tập trung vào các danh mục sinh non theo tuổi thai. Các biến xã hội, bao gồm giới tính, trình độ giáo dục của mẹ, địa vị kinh tế-xã hội (được xác định sử dụng mã bưu điện và Chỉ số Bị tước quyền Vật chất và Xã hội), và tình trạng di cư được trích xuất để đánh giá sự đóng góp tương đối. Kết quả giáo dục chính bao gồm điểm trung bình cuối cùng của trung học phổ thông, tình trạng tốt nghiệp trung học phổ thông vào tuổi 22, và việc có bằng đại học ở bất kỳ tuổi nào.
Kết quả chính
Tổng cộng 297.820 người tham gia được phân tích, bao gồm 95.745 người sinh non (0,6% sinh cực kỳ non, 4,4% sinh rất non, 27,9% sinh vừa phải đến muộn) và 199.575 người sinh đủ tháng. Nam giới chiếm 54,0% đội ngũ, và 9,4% có mẹ sinh ra ngoài Canada.
Trong số những người tiếp tục đi học, mối liên hệ giữa tình trạng sinh non và điểm trung học phổ thông cuối cùng là không đáng kể, cho thấy rằng việc sinh non tự thân không gây ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất học tập của những người tiếp tục học. Tuy nhiên, khi đánh giá trình độ giáo dục, một mối liên hệ liều lượng-đáp ứng rõ ràng đã xuất hiện giữa tuổi thai và khả năng hoàn thành trung học phổ thông hoặc có bằng đại học.
Cụ thể, những người sinh cực kỳ non có nguy cơ cao hơn 80% không tốt nghiệp trung học phổ thông vào tuổi 22 (tỷ lệ cược [OR], 1,80; khoảng tin cậy 99% [CI], 1,54–2,09) và có nguy cơ cao hơn 68% không có bằng đại học ở bất kỳ tuổi nào (OR, 1,68; 99% CI, 1,39–2,02) so với những người sinh đủ tháng. Những người sinh rất non và sinh vừa phải đến muộn có nguy cơ trung gian phù hợp với mức độ theo tuổi thai.
Quan trọng hơn, khi điều chỉnh cho các biến xã hội, sự đóng góp tương đối của sinh non đối với kết quả giáo dục nhỏ hơn so với các yếu tố như giới tính nam, trình độ giáo dục của mẹ thấp, địa vị kinh tế-xã hội bị tước quyền, và tình trạng di cư của mẹ. Ví dụ, giới tính nam và trình độ giáo dục của mẹ thấp có sự liên kết dự đoán mạnh mẽ hơn với việc không hoàn thành trung học phổ thông hoặc đại học, làm giảm tác động độc lập của sinh non.
Tập hợp lại, những kết quả này nhấn mạnh rằng mặc dù sự dễ tổn thương sinh học do sinh non gây ra ảnh hưởng đến trình độ giáo dục dài hạn, ngữ cảnh xã hội rộng lớn hơn có tác động chủ đạo. Điều này nhấn mạnh một nguyên nhân đa yếu tố nằm dưới sự chênh lệch trong thành tựu giáo dục.
Bình luận chuyên gia
Nghiên cứu dựa trên dân số này của Loose et al. cung cấp bằng chứng vững chắc lượng hóa sự tương tác giữa sinh non và các yếu tố xã hội trong việc hình thành kết quả giáo dục dài hạn. Thiết kế có sức mạnh tốt và theo dõi kéo dài đến giữa tuổi trưởng thành cung cấp những hiểu biết hiếm có trong nghiên cứu nhi khoa. Mặc dù sinh non vẫn là một yếu tố nguy cơ cho trình độ giáo dục thấp hơn, giải quyết các rào cản kinh tế-xã hội có thể mang lại tác động lớn hơn để cải thiện kết quả.
Về cơ chế, các rối loạn phát triển thần kinh liên quan đến sinh non—như sự gián đoạn trưởng thành não và tổn thương chất trắng—có thể đóng góp vào các khó khăn nhận thức và học tập. Tuy nhiên, sự thiếu hụt xã hội có thể làm phức tạp thêm những thách thức này thông qua việc tiếp cận hạn chế nguồn lực, hỗ trợ giáo dục, và môi trường ổn định. Nghiên cứu này đề xuất rằng các can thiệp hỗ trợ có mục tiêu, giám sát phát triển sớm, và các chính sách giáo dục bao gồm là cần thiết.
Hạn chế của nghiên cứu bao gồm đội ngũ lịch sử bao gồm các ca sinh từ 1976 đến 1995, khi chăm sóc sơ sinh khác biệt so với thực hành hiện đại. Vì vậy, các đội ngũ đang diễn ra sẽ cần thiết để đánh giá xu hướng khi tỷ lệ sống sót sơ sinh và chăm sóc phát triển thần kinh tiến triển. Ngoài ra, mặc dù dữ liệu dựa trên dân số Quebec cung cấp khả năng tổng quát hóa cho các cài đặt thu nhập cao tương tự, kết quả cần được xác nhận trong các bối cảnh đa dạng toàn cầu.
Kết luận
Tóm lại, những người sinh non, đặc biệt là ở tuổi thai cực kỳ thấp, có nguy cơ tăng cao không hoàn thành trung học phổ thông và đại học. Tuy nhiên, các yếu tố xã hội như giới tính, trình độ giáo dục của mẹ, địa vị kinh tế-xã hội, và nền tảng di cư có tác động lớn hơn đến trình độ giáo dục so với việc sinh non đơn thuần. Những kết quả này đòi hỏi theo dõi và hỗ trợ toàn diện, dài hạn tích hợp các yếu tố sinh học và xã hội.
Tối ưu hóa kết quả giáo dục cho những người sinh non yêu cầu các chiến lược đa ngành bao gồm cải thiện chăm sóc sơ sinh, các chương trình phát triển sớm, hỗ trợ tâm lý-xã hội dựa trên gia đình, và tiếp cận giáo dục công bằng. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các đội ngũ sinh hiện tại và điều tra các can thiệp hiệu quả để thu hẹp khoảng cách trong sự chênh lệch giáo dục do sinh non và bất lợi xã hội gây ra.
Tài liệu tham khảo
Loose T, Collet O, Nuyt AM, Goulet-Pelletier JC, Worrell FC, Côté S, Luu TM. Kết quả giáo dục dài hạn của những người sinh non. JAMA Netw Open. 2025 Oct 1;8(10):e2534918. doi: 10.1001/jamanetworkopen.2025.34918. PMID: 41032299.
Blencowe H, Cousens S, Oestergaard MZ, et al. Ước lượng quốc gia, khu vực và toàn cầu về tỷ lệ sinh non năm 2010 và xu hướng thời gian từ năm 1990 cho các nước được chọn: Phân tích hệ thống và ý nghĩa. Lancet. 2012;379(9832):2162–2172.
Saigal S, Doyle LW. Tổng quan về tỷ lệ tử vong và di chứng của sinh non từ tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Lancet. 2008;371(9608):261–269.
Johnson S, Wolke D. Kết quả người lớn của trẻ sinh non. Arch Dis Child. 2013;98(9):736–740.
Hack M, Taylor HG, Drotar D, et al. Tình trạng mạn tính, hạn chế chức năng, và nhu cầu chăm sóc sức khỏe đặc biệt của trẻ em tuổi đi học sinh với cân nặng sinh cực kỳ thấp trong thập kỷ 1990. JAMA. 2005;294(3):318–325.