Giải mã mối liên hệ giữa Trí tuệ chung và Nguy cơ Rối loạn Sử dụng Rượu

Giải mã mối liên hệ giữa Trí tuệ chung và Nguy cơ Rối loạn Sử dụng Rượu

Nổi bật

  • Trí tuệ chung (IQ) có mối liên hệ nghịch với nguy cơ rối loạn sử dụng rượu (AUD) dài hạn.
  • Sự ngẫu nhiên Mendel cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa hiệu suất nhận thức thấp hơn và nguy cơ AUD tăng lên.
  • Trình độ giáo dục đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này theo cách khác nhau qua các bối cảnh xã hội văn hóa.
  • Các điểm đa gen cho hiệu suất nhận thức dự đoán nguy cơ AUD giảm trong các nhóm được đặc trưng di truyền.

Nền tảng Nghiên cứu và Gánh nặng Bệnh tật

Rối loạn sử dụng rượu vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng lo ngại, góp phần đáng kể vào tỷ lệ mắc bệnh, tử vong và gánh nặng xã hội trên toàn thế giới. Hiểu rõ các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn khả năng mắc rối loạn sử dụng rượu (AUD) là điều cần thiết để có các chiến lược phòng ngừa và điều trị thông tin. Trí tuệ chung (IQ) và trình độ giáo dục (EA) được giả định có mối liên hệ nghịch với các rối loạn sử dụng chất, bao gồm cả AUD, tuy nhiên bản chất và tính nhân quả của các mối quan hệ này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Làm rõ sự tương tác giữa các đặc điểm nhận thức, tiền sử di truyền và các yếu tố xã hội văn hóa là cần thiết để xác định các cơ chế và cải thiện các biện pháp can thiệp.

Thiết kế Nghiên cứu

Nghiên cứu toàn diện này kết hợp các phương pháp dịch tễ học, di truyền và rủi ro đa gen để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa IQ, EA và nguy cơ AUD. Nghiên cứu sử dụng một nhóm tuyển chọn quốc gia Thụy Điển lớn bao gồm 645.488 nam giới sinh từ 1950-1962, trong đó 573.855 người có dữ liệu đầy đủ. Đánh giá IQ diễn ra khi 18 tuổi, với thời gian theo dõi kéo dài hơn 60 năm, trong đó các trường hợp AUD mới được ghi nhận bởi các đăng ký y tế quốc gia. Các biến số quan trọng bao gồm rối loạn sử dụng chất của cha mẹ, chẩn đoán tâm thần, các biến số kinh tế xã hội và các lứa sinh.

Để đánh giá tính nhân quả, các số liệu thống kê tóm tắt từ các nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen (GWAS) về hiệu suất nhận thức (n=257.481) và AUD (tổng=753.248; trường hợp=113.325) ở các cá nhân có nguồn gốc châu Âu đã được đưa vào các phân tích sự ngẫu nhiên Mendel (MR). Liên minh FinnGen cung cấp một mẫu tái tạo (tổng=500.348; trường hợp=20.597). Phân tích điểm đa gen (PGS) về hiệu suất nhận thức đã được thực hiện sử dụng dữ liệu nhóm Yale-Penn (n=5.424) để kiểm tra ảnh hưởng của khả năng di truyền đối với chẩn đoán AUD.

Kết quả Chính

Các phân tích dịch tễ học cho thấy IQ thấp hơn ở tuổi 18 đáng kể tăng nguy cơ phát triển AUD sau này trong cuộc đời (tỷ lệ nguy cơ điều chỉnh [HR] 1.43; khoảng tin cậy 95% [CI], 1.40-1.47; P<.001), kiểm soát các yếu tố nhiễu tiềm ẩn bao gồm lịch sử gia đình và các yếu tố kinh tế xã hội. Mối liên hệ mạnh mẽ này nhấn mạnh IQ là một dự đoán độc lập cho khả năng mắc AUD.

Phân tích MR củng cố các kết quả này, chỉ ra một tác động nhân quả có ý nghĩa thống kê trong đó hiệu suất nhận thức do di truyền quyết định thấp hơn làm tăng nguy cơ AUD (beta [SE] 0.11 [0.02], P=2.6×10⁻¹²). Kết quả song song qua các nguồn gốc GWAS và các nhóm xác nhận tăng cường sự tự tin vào tính nhân quả thay vì chỉ là sự tương quan.

Đáng chú ý, vai trò trung gian của trình độ giáo dục khác nhau qua các bối cảnh quốc gia và văn hóa, gợi ý rằng các yếu tố xã hội văn hóa điều chỉnh cách các đặc điểm nhận thức chuyển đổi thành nguy cơ AUD.

Phân tích PGS trong nhóm Yale-Penn còn tiết lộ rằng các điểm đa gen hiệu suất nhận thức cao hơn liên quan đến tỷ lệ nguy cơ AUD giảm (tỷ lệ nguy cơ [OR] 0.83; khoảng tin cậy 95% [CI], 0.78-0.89), khẳng định sự chồng chéo di truyền giữa các vị trí liên quan đến trí tuệ và sự dễ mắc AUD.

Bình luận Chuyên gia

Nghiên cứu mang tính đột phá này thêm độ rõ ràng cho cuộc tranh luận lâu nay về mối quan hệ giữa trí tuệ và các rối loạn sử dụng chất. Việc sử dụng một nhóm dân số lớn, được đặc trưng tốt với thời gian theo dõi rộng rãi, kết hợp với các kỹ thuật dịch tễ học di truyền tiên tiến, cung cấp bằng chứng thuyết phục về mối liên hệ nhân quả giữa khả năng nhận thức và nguy cơ AUD.

Quan trọng là, vai trò phụ thuộc bối cảnh của trình độ giáo dục làm nổi bật sự phức tạp của các tương tác gen-môi trường trong sự khởi phát của AUD. Điều này gợi ý rằng các biện pháp can thiệp tăng cường cơ hội giáo dục có thể giảm thiểu rủi ro di truyền trong một số bối cảnh nhưng có thể ít hiệu quả trong những nơi khác mà các yếu tố văn hóa hoặc hệ thống chiếm ưu thế.

Hạn chế bao gồm việc hạn chế đối tượng nam giới trong một bối cảnh quốc gia cho nhóm theo dõi triển vọng và tập trung chủ yếu vào các cá nhân có nguồn gốc châu Âu trong các phân tích di truyền, điều này có thể hạn chế tính tổng quát. Công việc trong tương lai nên khám phá các quần thể đa dạng và các hiệu ứng giới.

Về mặt cơ chế, hiệu suất nhận thức có thể ảnh hưởng đến nguy cơ AUD thông qua các yếu tố như chức năng điều hành, kiểm soát xung động và khả năng ra quyết định—những lĩnh vực quan trọng đối với các hành vi sử dụng chất. Các biến dị di truyền liên quan đến trí tuệ có thể ảnh hưởng đến các con đường phát triển não bộ giao nhau với các mạch thưởng và nghiện.

Kết luận

Việc tích hợp dữ liệu dịch tễ học và di truyền cung cấp bằng chứng mạnh mẽ rằng trí tuệ chung thấp hơn đóng góp nhân quả vào nguy cơ rối loạn sử dụng rượu tăng lên, với trình độ giáo dục có tác động điều chỉnh bị ảnh hưởng bởi bối cảnh xã hội văn hóa. Các kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét các hồ sơ nhận thức và di truyền trong việc đánh giá và ngăn ngừa nguy cơ AUD. Nghiên cứu trong tương lai nên nhằm mục đích xác định các cơ chế sinh học và các con đường xã hội-hành vi liên quan, và mở rộng các cuộc điều tra qua các quần thể đa dạng để cho phép các biện pháp can thiệp có mục tiêu và công bằng.

Tài liệu tham khảo

1. Capusan AJ, Davis CN, Thern E, Rehm J, Gelernter J, Kranzler HR, Heilig M. Measures of General Intelligence and Risk for Alcohol Use Disorder. JAMA Psychiatry. 2025 Oct 1. doi:10.1001/jamapsychiatry.2025.2689. Epub ahead of print. PMID: 41032335.

2. Gelernter J, Kranzler HR, Sherva R, et al. Genome-wide association study of alcohol dependence: significant findings in African- and European-Americans including novel risk loci. Mol Psychiatry. 2014;19(1):41-49.

3. Davies G, Lam M, Harris SE, et al. Study of 300,486 individuals identifies 148 independent genetic loci influencing general cognitive function. Nat Commun. 2018;9(1):2098.

4. Richards M, Shires P, Sacker A. Lifetime cognitive function, educational attainment and health: findings from the British 1946 birth cohort. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol. 2017;52(1):43-51.

5. Jansen PR, Watanabe K, Stringer S, et al. Genome-wide analysis of insomnia in 1,331,010 individuals identifies new risk loci and functional pathways. Nat Genet. 2019;51(3):394-403.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *