Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh tật
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là một tình trạng hô hấp phổ biến và tiến triển, đặc trưng bởi hạn chế dòng khí và viêm mạn tính. Nó là nguyên nhân hàng đầu gây ra tỷ lệ mắc và tử vong trên toàn thế giới. Một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân COPD—ước tính từ 20% đến 40%—hiển thị kiểu hình viêm bạch cầu ái toan, được đánh dấu bằng nồng độ bạch cầu ái toan ngoại vi máu cao. Nhóm này có xu hướng trải qua nhiều đợt bùng phát thường xuyên và nghiêm trọng hơn, đóng góp đáng kể vào gánh nặng bệnh tật, giảm chất lượng cuộc sống và tăng cường sử dụng dịch vụ y tế.
Chính xác học của COPD kiểu hình bạch cầu ái toan liên quan đến viêm do bạch cầu ái toan, chủ yếu được điều hòa bởi interleukin (IL)-5—một cytokine chính chịu trách nhiệm cho sự biệt hóa, di chuyển và sống sót của bạch cầu ái toan. Các phương pháp điều trị truyền thống bao gồm corticosteroid hít (ICS), beta-agonist tác dụng kéo dài (LABA) và đối kháng muscarinic tác dụng kéo dài (LAMA) cung cấp kiểm soát cơ bản, nhưng các đợt bùng phát vẫn tiếp tục xảy ra trong nhóm nguy cơ cao này.
Mepolizumab, một kháng thể đơn dòng hóa người nhắm mục tiêu IL-5, đã cho thấy lợi ích lâm sàng trong COPD kiểu hình bạch cầu ái toan bằng cách giảm các đợt bùng phát thông qua việc giảm số lượng bạch cầu ái toan. Việc áp dụng tiềm năng của nó trong COPD kiểu hình bạch cầu ái toan giải quyết một nhu cầu điều trị chưa được đáp ứng cho việc điều trị sinh học có mục tiêu để giảm tần suất các đợt bùng phát vượt quá các liệu pháp hít chuẩn.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm MATINEE là một nghiên cứu giai đoạn 3, mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược, được thiết kế để đánh giá hiệu quả và an toàn của mepolizumab trong việc phòng ngừa các đợt bùng phát ở bệnh nhân COPD có kiểu hình bạch cầu ái toan mặc dù đã nhận được liệu pháp hít ba thành phần tối ưu. Những người tham gia đủ điều kiện có tiền sử ít nhất một hoặc nhiều đợt bùng phát trung bình hoặc nặng trong năm trước và nồng độ bạch cầu ái toan máu cơ bản ≥300 tế bào/µL.
Tổng cộng 804 bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa 1:1 để nhận mepolizumab 100 mg hoặc giả dược dưới da mỗi 4 tuần trong khoảng thời gian từ 52 đến 104 tuần. Điểm cuối chính là tỷ lệ hàng năm của các đợt bùng phát COPD từ trung bình đến nặng, với các điểm cuối thứ cấp phân cấp bao gồm thời gian đến đợt bùng phát đầu tiên, kết quả được báo cáo bởi bệnh nhân liên quan đến chất lượng cuộc sống và triệu chứng, và các đợt bùng phát cần phải thăm phòng cấp cứu hoặc nhập viện. Đa dạng tính được kiểm soát bằng cách thử nghiệm các điểm cuối thứ cấp theo thứ tự.
Kết quả chính
Trong số 804 bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa, 403 người nhận mepolizumab và 401 người nhận giả dược. Điều trị mepolizumab dẫn đến việc giảm đáng kể 21% tỷ lệ hàng năm của các đợt bùng phát COPD từ trung bình đến nặng so với giả dược (0.80 so với 1.01 sự kiện mỗi năm; tỷ lệ 0.79; khoảng tin cậy 95%, 0.66 đến 0.94; P = 0.01).
Thời gian trung vị đến đợt bùng phát đầu tiên từ trung bình đến nặng được kéo dài gần 100 ngày trong nhóm mepolizumab so với giả dược (419 so với 321 ngày), với tỷ lệ nguy cơ là 0.77 (khoảng tin cậy 95%, 0.64 đến 0.93; P = 0.009), cho thấy sự chậm trễ trong khởi phát đợt bùng phát.
Dù có những giảm đáng khích lệ về tỷ lệ các đợt bùng phát, không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm trong các kết quả được báo cáo bởi bệnh nhân liên quan đến chất lượng cuộc sống và triệu chứng. Vì các điểm cuối này được đánh giá trong một khung kiểm tra phân cấp, việc thiếu ý nghĩa đã ngăn chặn suy luận thống kê chính thức cho các điểm cuối thứ cấp tiếp theo như các đợt bùng phát dẫn đến thăm phòng cấp cứu hoặc nhập viện.
Các hồ sơ an toàn của mepolizumab và giả dược tương đương, với tỷ lệ các sự cố bất lợi tương tự, hỗ trợ khả năng dung nạp của can thiệp này trong dân số đang sử dụng liệu pháp ba thành phần ổn định.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm MATINEE cung cấp bằng chứng mạnh mẽ hỗ trợ việc sử dụng mepolizumab như một liệu pháp bổ trợ trong bệnh nhân COPD có kiểu hình bạch cầu ái toan vẫn tiếp tục trải qua các đợt bùng phát mặc dù đã sử dụng liệu pháp hít tối đa. Điều này phù hợp với các khái niệm mới nổi nhấn mạnh sự đa dạng của COPD và tiềm năng điều trị của các liệu pháp sinh học có mục tiêu được điều chỉnh cho các kiểu hình viêm cụ thể.
Tuy nhiên, việc thiếu cải thiện trong các kết quả được báo cáo bởi bệnh nhân đặt ra những cân nhắc quan trọng. Nó cho thấy rằng mặc dù mepolizumab hiệu quả trong việc giảm tần suất các đợt bùng phát, nó có thể không trực tiếp chuyển đổi thành sự giảm nhẹ triệu chứng hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống trong thời gian nghiên cứu. Các lý do có thể bao gồm nhiều yếu tố góp phần vào các triệu chứng trong COPD hoặc sự kém nhạy cảm của các công cụ đo lường được báo cáo bởi bệnh nhân để nắm bắt các thay đổi liên quan cụ thể đến viêm bạch cầu ái toan.
Hơn nữa, các tiêu chí tuyển chọn nghiêm ngặt của thử nghiệm—yêu cầu nồng độ bạch cầu ái toan cao và các đợt bùng phát gần đây mặc dù đã sử dụng liệu pháp ba thành phần—xác định một nhóm nguy cơ cao trong đó lợi ích rõ ràng nhất, nhưng việc tổng quát hóa cho các dân số COPD rộng hơn nên được hiểu cẩn thận. Nghiên cứu thêm có thể điều tra các kết quả dài hạn, ảnh hưởng đến sự suy giảm chức năng phổi và phân tích hiệu quả kinh tế.
Kết luận
Mepolizumab giảm đáng kể tỷ lệ các đợt bùng phát COPD từ trung bình đến nặng khi được sử dụng như một liệu pháp bổ trợ cho liệu pháp hít ba thành phần ở bệnh nhân có kiểu hình bạch cầu ái toan đã xác nhận. Điều này đại diện cho một bước tiến có ý nghĩa trong quản lý COPD cá nhân hóa, cung cấp một lựa chọn điều trị có mục tiêu cho một nhóm có nhu cầu chưa được đáp ứng đáng kể. Tuy nhiên, việc thiếu tác động có thể phát hiện trên các chỉ số chất lượng cuộc sống xứng đáng được điều tra thêm. Sự tích hợp mepolizumab vào thực hành lâm sàng sẽ phụ thuộc vào việc xác định chẩn đoán kiểu hình bạch cầu ái toan và cân nhắc lợi ích lâm sàng đối với các vấn đề kinh tế.
Tham khảo
1. Sciurba FC, Criner GJ, Christenson SA, et al. Mepolizumab to Prevent Exacerbations of COPD with an Eosinophilic Phenotype. N Engl J Med. 2025 May 1;392(17):1710-1720. doi: 10.1056/NEJMoa2413181. PMID: 40305712.
2. Bafadhel M, Pavord ID, Russell REK. Eosinophils in COPD: Just another biomarker? Lancet Respir Med. 2017;5(9):747-759.
3. Vogelmeier CF, Criner GJ, Martinez FJ, et al. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (GOLD) 2024 Report: Global Strategy for Prevention, Diagnosis and Management of COPD. Am J Respir Crit Care Med. 2024;209(9):1231-1245.