Nhấn mạnh
– Điều trị xạ trị định hình (XĐH) trước mổ cho di căn não cho thấy độ an toàn tương đương với XĐH sau mổ.
– XĐH trước mổ rút ngắn đáng kể thời gian điều trị, tăng tốc thời gian hoàn thành.
– Không có sự khác biệt đáng kể về biến cố sau phẫu thuật 30 ngày hoặc sự kiện sau thủ thuật giữa XĐH trước mổ và sau mổ.
– Tỷ lệ hoàn thành cả hai phương pháp điều trị cao hơn trong nhóm XĐH trước mổ so với sau mổ.
Nền tảng nghiên cứu và gánh nặng bệnh lý
Di căn não là một thách thức lâm sàng đáng kể trong lĩnh vực ung thư, xuất hiện ở khoảng 20-40% bệnh nhân ung thư người lớn trong quá trình bệnh. Những tổn thương này ảnh hưởng đáng kể đến chức năng thần kinh, chất lượng cuộc sống và sự sống sót tổng thể. Các phương pháp điều trị chuẩn thường kết hợp cắt bỏ phẫu thuật và điều trị xạ trị định hình (XĐH) để tối đa hóa kiểm soát tại chỗ đồng thời bảo tồn chức năng thần kinh. Theo thông lệ, XĐH được thực hiện sau phẫu thuật; tuy nhiên, quy trình này có thể làm chậm điều trị bổ trợ do thời gian phục hồi sau phẫu thuật và gây ra những thách thức về mặt tổ chức. Ngoài ra, thời điểm xạ trị liên quan đến phẫu thuật có thể ảnh hưởng đến các hồ sơ độc tính và hiệu quả điều trị. Do đó, đánh giá khả thi, độ an toàn và lợi thế tổ chức của việc thực hiện XĐH trước mổ cung cấp cơ hội để tối ưu hóa quản lý đa ngành cho di căn não.
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên giai đoạn 3 đơn trung tâm này đã tuyển chọn 103 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên có di căn não, là đối tượng dự kiến sẽ thực hiện cắt bỏ phẫu thuật và điều trị xạ trị định hình. Các tiêu chí bao gồm chính bao gồm trạng thái hoạt động Eastern Cooperative Oncology Group (ECOG) 2 hoặc tốt hơn và đủ điều kiện để thực hiện XĐH trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật. Bệnh nhân có tổ chức khối u nhạy cảm với xạ trị (như ung thư phổi tế bào nhỏ hoặc lymphoma), di căn não không xác định nguyên phát hoặc bệnh màng não lan tỏa trên hình ảnh học được loại trừ.
Các đối tượng được ngẫu nhiên 1:1 thành hai nhóm: nhóm XĐH trước mổ nhận 1 đến 5 liều XĐH sau đó tiến hành cắt bỏ phẫu thuật trong vòng một tháng kể từ khi xạ trị. Nhóm XĐH sau mổ tiến hành cắt bỏ phẫu thuật đầu tiên, sau đó thực hiện XĐH trong vòng một tháng sau phẫu thuật. Các điểm cuối chính và phụ tập trung vào hồ sơ độ an toàn, khả thi, biến cố sau thủ thuật, quản lý xạ trị và kết quả tác dụng độc.
Kết quả chính
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 103 bệnh nhân với tuổi trung bình là 59 tuổi (khoảng 26-83), trong đó 54.4% là nam giới. Trong số đó, 83 bệnh nhân (80.6%) hoàn thành cả hai phương pháp điều trị xạ trị và phẫu thuật trong nghiên cứu. Tại thời điểm đăng ký, phần lớn bệnh nhân (84%) có 1 đến 4 di căn não, trong khi 13% có 5 đến 10 tổn thương và 2% có hơn 10 tổn thương.
Tỷ lệ hoàn thành cao hơn trong nhóm XĐH trước mổ, với 88% hoàn thành cả hai phương pháp điều trị, so với 73% trong nhóm sau mổ. Điều quan trọng là không có sự khác biệt đáng kể về biến cố sau phẫu thuật 30 ngày hoặc sự kiện sau thủ thuật giữa hai nhóm, nhấn mạnh hồ sơ độ an toàn tương đương.
Một lợi thế tổ chức đáng chú ý đã được quan sát với XĐH trước mổ: khoảng cách trung bình giữa phẫu thuật và XĐH ngắn hơn đáng kể ở 6 ngày (khoảng 0-24) so với 22 ngày (khoảng 12-42) trong nhóm sau mổ (P < .001). Hơn nữa, thời gian trung bình tổng cộng từ ngẫu nhiên đến hoàn thành cả hai phương pháp điều trị hướng đến não là 10 ngày (khoảng 4-31) trong nhóm trước mổ so với 32.5 ngày (khoảng 19-55) trong nhóm sau mổ (P < .001). Thời gian nhanh chóng này có thể chuyển thành việc bắt đầu sớm hơn các phương pháp điều trị bổ trợ, có thể cải thiện kết quả ung thư và tiện lợi cho bệnh nhân.
Ngoài ra, nghiên cứu báo cáo các thực hành quản lý xạ trị tương đương, cho thấy XĐH trước mổ khả thi trong các quy trình lâm sàng hiện có.
Bình luận chuyên gia
Thử nghiệm ngẫu nhiên này cung cấp bằng chứng quan trọng hỗ trợ tính hữu ích lâm sàng của XĐH trước mổ cho bệnh nhân đang phẫu thuật di căn não. Hồ sơ độ an toàn tương đương và thời gian điều trị ngắn hơn giải quyết các rào cản lâm sàng chính trong chăm sóc đa ngành ung thư. Xạ trị trước mổ cũng có thể mang lại lợi thế sinh học lý thuyết, như tiệt trùng các rìa vi mô của khối u trước khi can thiệp phẫu thuật và giảm nguy cơ phân tán tế bào khối u.
Tuy nhiên, các kết quả cần được xem xét trong phạm vi hạn chế của nghiên cứu, đặc biệt là một thử nghiệm đơn trung tâm với mẫu nhỏ và tập trung vào độ an toàn và tổ chức không phải là điểm cuối chính. Cần thêm các nghiên cứu đa trung tâm với thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá các kết quả ung thư dài hạn, bao gồm kiểm soát tại chỗ, tác động thần kinh nhận thức và sự sống sót tổng thể.
Hướng dẫn quản lý di căn não ngày càng công nhận các tiếp cận định hình, nhưng thời điểm tối ưu so với phẫu thuật vẫn đang được điều tra. Thử nghiệm này đóng góp dữ liệu lâm sàng tiền cứu quý giá có thể ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn đang phát triển và các đường dẫn chăm sóc hướng đến bệnh nhân.
Kết luận
Tóm lại, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên giai đoạn 3 này chứng minh rằng điều trị xạ trị định hình trước mổ cho di căn não an toàn như sau mổ, với những lợi ích đáng kể trong việc rút ngắn thời gian hoàn thành điều trị. Kết quả này cho thấy XĐH trước mổ là một lựa chọn khả thi và hiệu quả có thể cải thiện logic điều trị và hỗ trợ quản lý đa ngành nhanh chóng. Nghiên cứu trong tương lai nên nhằm mục đích xác nhận các kết quả này trong các nhóm lớn hơn và đánh giá các kết quả ung thư và thần kinh nhận thức dài hạn để định rõ vai trò của XĐH trước mổ trong thực hành lâm sàng.
Tham khảo
- Yeboa DN et al. Therapy, Safety, and Logistics of Preoperative vs Postoperative Stereotactic Radiation Therapy: A Preliminary Analysis of a Randomized Clinical Trial. JAMA Oncol. 2025 Aug 1;11(8):890-899. doi: 10.1001/jamaoncol.2025.1770.
- Margolin K, Linskey ME. Management of brain metastases: an overview. Compr Physiol. 2017 Jan;7(1):663-695. doi: 10.1002/cphy.c160006.
- Yang TJ, Wu AJ, Henke LE. Impact of radiation therapy timing on outcomes in patients with brain metastases undergoing surgical resection. Neurosurg Focus. 2020 Aug;49(2):E13. doi: 10.3171/2019.11.FOCUS19602.